Định nghĩa tư vấn và giải đáp các thuật ngữ liên quan đến máy móc ngành in.

Lên phía trên
Máy bồi là gì dùng để làm gì ?
Câu hỏi:

Tôi muốn biết máy bồi dùng để làm gì ? tác dụng của máy bồi giấy ? máy bồi bìa lịch ?

Trả lời:
MÁY BỒI:
Máy bồi dùng để dán thêm một lớp giấy in offset lên một tấm bìa carton 2 lớp, 3 lớp tạo ra mẫu mã đẹp và đa dạng. Máy định vị chính xác, đưa giấy tự động, không lệch.
Có 2 loại máy bồi: máy bồi tự động và máy bồi bán tự động.
Máy bồi giấy tự động sử dụng một dây chuyền đẩy và hệ thống tái bảo đảm, cùng với dao xoay cạnh và hệ thống băng tải chân không tạo cho chiếc máy hoàn toàn khít với những khổ giấy lớn, tính chính xác cao, dễ dàng vận hành và bảo trì. Lõi trục cuốn thiết kế bởi cao su, đi kèm với trục cuốn khía thép tăng cường độ trơn tru của keo dính và độ bền của tính dính, giúp giảm chi phí sản xuất. Trục cuốn đã qua kiểm tra cân bằng, công nghệ gắn kết chặt chẽ, cộng thêm hệ thống bánh răng định giờ truyền động cơ khí đem lại sự vận hành ít ồn với độ chính xác cao cho chiếc máy.

Máy bồi giấy tự động sử dụng keo dính hỗ trợ tự động và hệ thống keo tuần hoàn. Bộ phận nạp liệu tự vận hành mạnh mẽ phù hợp với cấu hình hệ thống điện, khiến chiếc máy chạy bền và ít gặp sự cố. Thiết bị điện được sử dụng có nguồn từ các nhãn hàng nổi tiếng hoặc có uy tín cao trên thị trường. Tất cả vật liệu đều đạt chuẩn ISO 9001 và các servo tùng chính, như vòng bi điều hòa và ổ bi đều được nhập khẩu. Bản giấy đáy cho máy có thể A,B,C,D,E, hoặc F cho giấy gấp nếp. Nó có thể thực hiện 3 hoặc 5 lớp bản rộng để cán hoặc cán bản này đến bản kia. Số lượng đầu giấy có thể là khoảng 200-600 GSM với chức năng đổi đầu giấy ưu việt.

Lên phía trên
MÁY LÀM NHÃN GIẤY
Câu hỏi:

Định nghĩa đăc tính và ứng dụng của máy làm nhãn giấy ?

Trả lời:

Máy làm nhãn giấy, hay còn được gọi là máy làm nhãn dính.

Đặc tính
Máy làm nhãn giấy có thể thực hiện và hoàn thành nhiều công đoạn cùng lúc. Nói chung, chiếc máy này có thể hoàn thiện các bước tạo nhãn, như in nhãn, bế nhãn, ghép màng, cấn, ép nhũ, đóng cuộn và nhiều công đoạn khác. Chức năng này đáp ứng tương thích với nhiều công đoạn chế tạo nhãn với đặc tính phong phú.

Ứng dụng
Máy tạo nhãn được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, sản xuất thuốc và dược phẩm, công nghiệp đóng gói, công nghiệp thực phẩm, v.v...

Chỉ dẫn của máy tạo nhãn giấy
Danbuon.com là một nhà nhập khẩu và cung ứng sản phẩm máy tạo nhãn giấy có nhiều năm kinh nghiệm. Chúng tôi có thể hoàn thiện cả hệ thống máy tạo nhãn dính gồm thiết bị in, thiết bị chia nhãn, máy bế nhãn, và máy bế tròn xoay dành cho nhãn.
1. Máy in nhãn bao gồm máy in tấm bản PS, máy in flexo, máy in lưới. Nhờ hiệu suất vận hành cao đi kèm thiết kế ưu việt, công ty chúng tôi không chỉ tiết kiệm được sức lao động mà còn tiết kiệm được nguồn nguyên vật liệu thô trong suốt quy trình sản xuất.
2. Máy chia nhãn và máy bế được đề cập đến ở bên trên được thiết kế với chức năng đếm chiều dài và đếm số kết hợp, chức năng tự dừng, cộng thêm sự dễ dàng tiện lợi trong sử dụng.
3. Máy kiểm tra nhãn cũng được cung cấp với bảo hành chất lượng nhãn.

Tất cả máy móc làm nhãn giấy với độ chính xác và tính năng tốt. Đặc tính cơ học khác biệt của nó đem lại tuổi thọ lâu dài cho sản phẩm. 
Ngoài ra, nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng, chúng tôi cũng sản xuất nhiều loại máy móc khác, như máy sản xuất túi nhựa, máy ghép màng nhiệt, máy đóng gói, máy cuộn và chia cuộn cùng nhiều thiết bị khác.
Để biết thêm thông tin chi tiết, quý vị có thể liên hệ hoặc gửi mail đến tại bất kỳ thời điểm nào trong ngày, công ty chúng tôi luôn luôn chào đón.

Lên phía trên
Máy và các thiết bị trước in giá tốt ở đâu ?
Câu hỏi:

Máy và các thiết bị trước in giá tốt ở đâu ?

Trả lời:

Công ty chúng tôi có thể cung cấp hàng loạt các loại máy, gồm có máy bế, máy ghép màng, máy cắt giấy, máy cắt giấy 3 lưỡi dao, máy dán cửa sổ và nhiều loại khác. Các loại máy của chúng tôi được thiết kế với cấu trúc thân thiện với người sử dụng và hoạt động dễ dàng. Chúng có đặc điểm là hiệu suất làm việc đáng tin cậy mà hoạt động ổn định.

Thiết bị của chúng tôi được sử dụng rộng rãi cho công nghiệp in ấn, công nghiệp đóng gói, hộp giấy, công nghiệp làm nhãn giấy v.v.

Để đáp ứng nhu cầu đang dạng của khách hàng, công ty thiết bị Lingsun cũng có thể cung cấp thiết bị làm nhãn giấy, máy sản xuất túi nhựa, và máy đóng gói. Với chất lượng đáng tin cậy và giá cả kinh tế, máy in và đóng gói của chúng tôi cũng như bao loại thiết bị khác được chấp nhận ở trên 50 quốc gia trên thế giới như châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ.

Cám ơn các bạn đã ghé thăm website của chúng tôi. Nếu bạn có bất cứ nhu cầu nào về thiết bị in ấn và đóng gói, hay cần đến thiết bị in báo, hãy liên hệ ngay với chúng tôi. Chúng tôi sẵn sang phục vụ bạn.

 Chi tiết tư vấn và báo giá liên hệ 0976 249 627 - Ms Loan - phục vụ 24/24h

Lên phía trên
Máy in ống đồng
Câu hỏi:

Khái niệm in ống đồng ?

Trả lời:

Phương pháp in ống đồng ở khuôn các phần tử in nằm sâu hơn các phần tử để trắng. Độ sâu của các phần tử để trắng. Độ sâu của các phần tử in phụ thuộc vào tầng thứ của bài mẫu những bộ phận tối của bài mẫu ứng với những phần tử in có độ sâu lớn hơn trên khuôn in và những bộ phận sáng của bài mẫu có độ sâu nhỏ hơn trên khuôn in. Tầng thứ của bài mẫu ở phương pháp in ống đồng (in lõm) được thể hiện trên tờ in bằng độ dày khác nhau của lớp mực

 

Trong quá trình in trước tiên mực được truyền tới các phần tử in và các phần tử không in sau đó nhờ một dao gạt mực. Đặc biệt mực được gạt sạch khỏi các phần tử không in và phần mực thừa ở các phần tử in.

Chế tạo khuôn in ống đồng.
Hiện nay người ta có thể chế tạo các khuôn in ống đồng bằng các phương pháp quang hóa hoặc phương pháp khắc điện tử. Phương pháp quang hoá dựa trên cơ sở các quá trình ảnh, quá trình hoá – lý , quá trình cơ học và điện phân
Ví dụ : hình ảnh được truyền sang khuôn in bằng quá trình chụp ảnh còn các phần tử in được ăn sâu bằng quá trình ăn mòn hóa học

Quá trình công nghệ chế tạo khuôn in ống đồng bằng phương pháp quang hóa gồm các công đoạn chính
a. Chế tạo phim dương bản và bình bản
b. Chuẩn bị vật liệu làm khuôn in
c. Truyền hình ảnh sang khuôn in
d. Ăn mòn và gia công khuôn in

1. Chế tạo phim dương bản và bình bản
Tuỳ đặc điểm của ấn phẩm, để chế tạo khuôn in ta có thể dùng các bài mẫu khác nhau ( ảnh chụp, ảnh vẽ nétvv..v) Quá trình chế tạo dương bản nét và chữ trơn không khác gì so với quá trình chế tạo khuôn in offset
Với dương bản tầng thứ( chụp từ các ảnh..) điểm khác với offset là không chụp qua tram( không dùng tram ở công đoạn này). Trước hế, từ các bản mẫu tầng thứ nhận được âm bản, Sau đó từ âm bản này lại công tắc ra dương bản. Một điểm cần lưu ỳ việc sửa chửa những sai sót trực tiếp trên khuôn in ống đồng rất phức tạp và khó thực hiện theo ý muốn, nên tất cả những nhược điểm về tầng thứ và mọi khuyết tật khác cần phải được khắc phục ngay từ âm bản và dương bản . Sau khi có phim dương bản việc tiếp theo là bình bản công việc này cũng tương tự như đã làm với bình bản offset. Tùy công nghệ chế bản ( một quá trình hay hai quá trình) có thể để chử riêng hay ảnh riêng

2. Chuẩn bị vật liệu làm khuôn
Vì ở phương pháp in ống đồng còn áp dụng dao gạt mực nên phần lớn khuôn in được chế tạo không phải bằng tấm kim loại mà là những tấm thép hình trụ, trên bề mặt ống thép này được phủ một lớp đồng. Những ống thép( chưa phủ đồng) như thế được gởi tới nhà in cùng với máy in và có thể sử dụng nhiều lần
Khi chế tạo khuôn in ống thép hình trụ được gia công kỹ trên máy tiện và rửa sạch bụi bẩn. mỡ bằng dung dịch kiềm hoặc axít, sau đó phủ một lớp niken mỏng( 0.005-0.01mm) bằng phương pháp mạ . Khi đã phủ đạt yêu cầu kỹ thuật của lớp niken, ống thép được chuyển sang phần mạ đồng. Lớp đồng được phủ lên bằng quá trình điện phân. Trong khi tiến hành điện phân, ống thép được quay liên tục và dung dịch điện phân được khuấy liên tục. Trước tiên phủ lớp đế đồng với độ dày 0.1- 0.15mm,lớp “áo đồng” được dùng để tạo nên các phần tử in và các phần tử đễ trắng.
Mục đích của lớp phủ đế đồng lên bề mặt thép là đưa đường kính, của ống đồng tói kích thước theo đính yêu cầu cần thiết. Trước khi phủ lớp” áo đồng” người ta phủ lên ống trụ một lớp bạc ( Ag) thật mỏng. Nhờ lớp bạc này, sao khi in xong lớp “áo đồng” dễ dàng tách khỏi ống thép ( tách khỏi lớp đế đồng) Bề mặt lớp “ áo đồng” phải đảm bảo nhẵn bóng, không xước, không rạn nứt.. Muốn đạt yêu cầu này không phải chỉ chú ý đến thành phần dung dịch điện phân và chế độ điện phân đặc biệt, mà còn phải mài bóng lóp áo đồng bằng một loại thuốc đặc biệt
Nếu ống thép đã dùng khi tiến hành chuẩn bị phải tẩy bỏ lớp “áo đồng”, làm sạch lớp đế đồng , mạ bạc lớp mỏng, phủ lớp áo đồng mới và mài bóng

3. Truyền hình ảnh sang khuôn in
Để có thể nhận đựơc những phần tử in có độ nông – sâu khác nhau trong quá trình ăn mòn, nhất thiết phải tạo ra đựơc những “nét” hình ảnh cao thấp khác nhau. Hình ảnh “đặc biệt” như vậy không thể nhận được bằng phương pháp truyền trực tiếp hình ảnh từ dương bản ( phim) sang bề mặt ống đồng. Nên người ta phải dùng giấy pigment: Trước hết truyền hình ảnh sang giấy pigment đó mời truyền từ giấy pigment sang bề mặt ống thép dùng làm khuôn in.

4 .Ăn mòn và gia công khuôn in
Sau khi hiện, phải tiến hành ăn mòn bằng dung dịch sắt clorua. Quá trình ăn mòn là quá trình hóa – lý rất phức tạp . Đặc điểm của quá trình ăn mòn khuôn in lõm là : quá trình ăn mòn kim loại xãy ra dưới lớp pigment đã bắt hình. Đặc điểm này khác với in typô gây phúc tạp cho quá trình ăn mòn và khó khăn cho việc kiểm tra. Ngoài ra sau khi ăn mòn thì không thể sửa khuôn in được. Dung dịch sắt clorua, sau khi thấm qua lớp pigment bắt hình sẽ hoà tan đồng ở các phần tử in, độ sâu trong khi ăn mòn đồng phụ thuộc không những vào độ dày của lớp bắt hình, mà còn phụ thuộc vào nồng độ và nhiệt độ của sắt clorua, thời gian ăn mòn, độ ẩm và nhiệt độ không khív.v. ví dụ nếu dung dịch ăn mòn loãng sẽ chóng thấm qua lớp pigment bắt hình và ăn mòn đồng sâu hơn

Để bảm đảm truyền chính xác tầng thứ của bài mẫu nhấ thiết phải đạt được độ sâu của các phần tử in ở bộ phận tốt nhất là 55 -60 micromet sâu hơn những phần tử in ở bộ phận sáng từ 14 đến 16 lần

Sau khi ăn mòn tẩy bỏ lớp bảo vệ axít và lớp pigment bắt hình bằng xăng và axít clohidiric HCL. Kết quả là ta nhận được khuôn in ống đồng với độ chính xác về màu sắc và tầng thứ

Đây là phương pháp chế tạo khuôn in ống đồng trong giai đoạn trước khi máy khắc ống đồng điện tử xuất hiện.

 

Khác với phương pháp quang hoá phương pháp khắc điện tử dựa trên cơ sở việc sử dụng máy khắc điện tử tự động. Các phần tử cần in sau khi hoàn thiện bản in trên máy vi tính sẽ được truyền thẳng sang máy khắc trục ống đồng , máy khắc điện tử sẽ sử dụng một đầu khắc tia Lase bắn thẳng vào trục ống đồng qua đó sẽ khắc lên trục những phần tử cần in . Độ nông sâu của vết khắc tùy thuộc vào độ đậm nhạt và tầng thứ của bài mẫu, đây là pp mà hiện nay hầu hết ngành in ống đồng ở các nước phát triển đang sử dụng. Ở nước ta hiện nay hầu hết đều được tạo bằng phương pháp này do có nhiều ưa điểm như: Bảo đảm độ chính xác của phần tử in , quá trình thực hiện nhanh chóng và bỏ qua được nhiều công đoạn trong quá trình chế tạo khuôn in ống đồng, giảm bớt sự tác động của các yếu tố trong công đoạn chế tạo khuôn in so với phương pháp chế tạo khuôn in bằng phương pháp quang hoá

Chú ý : Phải đảm bảo sự chính xác về kích thước của hình ảnh trong tất cả các công đoạn của quá trình kỹ thuật. Quá trình phân màu cũng tương tự như chụp phân màu trong phương pháp in offset. Nhưng phương pháp in ống đồng khác với phương pháp in Typô và in Offset ở chổ tầng thứ của bài mẫu được truyền sang tờ in nhờ độ dày của lớp mực nên phương pháp in ống đồng chỉ cần in 3 màu in để phục chế các bài mẫu màu, màu thứ tư ít khi được sử dụng, cũng giống như trong phương pháp in offset, các phim âm bản và dương bãn của phương pháp in ống đồng phải được sửa chửa hoàn chỉnh trứơc khi phơi bản. Vì bản in ống đồng được chế tạo công phu và rất phức tạp nên không thể chề bản in thử như trong in Offset với pp in ống đồng khuôn in thật và in thử là một

 

 

 
Lên phía trên
MÀNG DÙNG TRONG BAO BÌ
Câu hỏi:

THÔNG SỐ KỸ THUẬT CÁC LOẠI MÀNG DÙNG TRONG BAO BÌ ?

Trả lời:
THÔNG SỐ KỸ THUẬT CÁC LOẠI MÀNG DÙNG TRONG BAO BÌ ? CÁC LOẠI MÀNG DÙNG TRONG BAO BÌ 1. KHÁI NIỆM VỀ BAO BÌ a. Định nghĩa : Với một hình dáng và kích cỡ đúng, bao bì chứa đựng và bảo vệ sản phẩm an toàn từ lúc vận chuyển đến khi phân phối đến tay người tiêu dùng. Ngoài ra, bao bì phải cung cấp thông tin cần thiết về nhà sản xuất, mô tả và giải thích cách dùng sản phẩm chứa đựng bên trong. Đây là phần tiếp thị và có ảnh hưởng to lớn đến khía cạnh kinh tế. Bao bì có tính động và thường xuyên thay đổi vật liệu mới, phương pháp thiết kế gia công mới, đòi hỏi phải thay đổi bao bì. Do vậy, quá trình biến đổi này diễn ra thường xuyên nhằm đạt được chất lượng cao nhất. b. Chức năng công nghệ và tiêu dùng : Trong quá trình sản xuất công nghiệp và phân phối hàng hóa, bao bì có những tính năng sau : - Bảo vệ : Kích thước của bao bì và sức bền chống lại lực từ phía chịu lực tác dụng. Sức bền chịu đựng khi rơi, khả năng chống ma sát mài mòn. Chống lại khả năng bị xuyên thủng nhằm bảo vệ sản phẩm nằm bên trong môi trường kín, sự tương hợp của bao bì đóng gói và sản phẩm bên trong. - Khuyếch trương sản phẩm : Ấn tượng về kiểu dáng và kích cỡ. Biểu hiện về chất lượng. Giá trị trưng bày. Quảng cáo, khuyếch trương nhãn hiệu. Trang trí màu sắc, chất lượng in ấn. Khả năng nhìn thấy sản phẩm bên trong. - Thông tin về sản phẩm : Khả năng thực hiện in ấn. Thông tin của nhà sản xuất. Chỉ dẫn sử dụng và bảo quản. Hiệu quả trong sử dụng. Có chỉ dẫn khác cần thiết về sử dụng với qui trình đóng gói. - Một số tính năng khác An toàn sử dụng cho trẻ em Tiện lợi trong sử dụng Có khả năng tiện mở và đóng kín trở lại Có thể kiểm tra được khối lượng bên trong khi sử dụng, dễ dàng khui mở cho người già. Bao bì cần có độ ổn định, cần có được sự chấp nhận về môi sinh, có khả năng phân hủy sau khi sử dụng. Nguyên liệu bao bì có thể tái sinh Tiện lợi trong quá trình lưu trữ. c. Phân loại : 3 loại theo cách ứng dụng Bao bì cấp 1 : Là loại bao bì tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm như lon, chai nhựa, bao.. . Hình 1: Bao bì cấp 1 của McDonald là hộp giấy Bao bì cấp 2 : là những bao bì đóng gói cho các bao bì cấp 1 như thùng carton, hộp giấy Hình 2: Thùng carton là dạng bao bì cấp 2 phổ biến nhất Bao bì cấp 3 : là những Container và những kiện lớn chứa bao bì cấp 2 .Ngoài ra người ta còn phân ra làm 2 loại theo mục đích sử dụng : Bao bì vận chuyển & Bao bì tiêu thụ tại chổ. d. Tên viết tắt của vật liệu bao bì : Một vài tên viết tắt gồm một vài ký tự theo quy định đã được dùng rộng rãi để thay thế các tên phức tạp của các loại chất dẻo khác nhau : PE = Polyethylen LDPE = Low Density Polyethylen MDPE = Medium Density Polyethylen HDPE = High Density Polyethylen PET = Polyethylen Terephthalate (Polyester) PP = Polypropylen OPP = Oriented Polypropylen BOPP = Biaxial Oriented Polypropylene PS = Polystyrene OPS = Oriented Polystyrene EPS = Expanded Polystyrene hoặc Foamed Polystyrene SAN = Styrene Acrylo Nitrile copolymer ABS = Acrylonitrile Butadiene Styrene copolymer PA = Polyamide (nylon) PVC = Polyvinyl Chloride PVDC = Polyvinylidene Chloride ( Saran) PVA = Polyvinyl Acetate (PVAC) PVAL = Polyvinyl Alcohol CMC = Carboxymethyl Cellulose CA = Cellulose Acetate EVA = Ethylene Vinyl Acetatet PX = Polymethyl Pentene CAB = Cellulose Asetate - Butyrate EC = Ethyl Cellulose 2. PHƯƠNG PHÁP BIỂU DIỄN BỀ DÀY CỦA MÀNG NHỰA Màng mỏng là vật liệu có bề dày không vượt quá 0.025mm hay 0.001in. Nếu giá trị bề dày lớn hơn 0.025mm thì gọi là dạng tấm. mm inch gauge mil microns 0.0064 0.00025 25 1/4 6.4 0.0127 0.00050 50 1/2 12.7 0.0254 0.00100 100 1 25.4 0.0508 0.00200 200 2 50.8 Với : 1mm = 0.039 in 1mil = 0.001 in 1gause = 0.00001 in Định lượng : màng nhựa cũng có thể được chỉ định bằng định lượng như giấy (g/m2). Mật độ : trọng lượng trên một đơn vị thể tích g/cm3 hoặc g/cc. Diện lượng (Yield) : diện tích màng có được của một đơn vị trọng lượng khi độ dày của màng là 1 mil (in2/lb/0.001 in) hoặc m2/kg/0.0254mm. 3. TÍNH CHẤT VÀ CÁC YÊU CẦU CHUNG ĐỐI VỚI MÀNG a. Lực bền kéo căng : Là lực để bẻ gãy vật liệu trên một đơn vị diện tích. Màng PP định hướng hoặc polyeste có giá trị lực bền kéo cao (≥ 400kp/cm)Cello-phane có thể đạt tới 600kp/cm2 nhưng LDPE thì chỉ từ 100 - 200. b. Lực bền xé rách : Rất quan trọng và có ảnh hưởng đến mục tiêu sử dụng cuối cùng của một số mẫu vật liệu làm bao bì. Giá trị này là 1 hướng dẫn cho biết khả năng chịu các ứng dụng của màng mỏng khi vận hành một vài thiết bị. Đối với 1 vài loại bao bì, tính chịu xé thấp trở nên có lợi (ví dụ như túi khoai tây chiên). PE có lực bền xé cao trong khi màng Cellophane và màng polyeste có giá trị này thấp. c. Trở lực va đập : Là tính chất có lợi đặc biệt khi đóng gói sản phẩm nặng trong màng plastic hoặc trong những vật chứa lớn mà chúng phải chịu va đập trong suốt quá trình vận chuyển. Phương pháp kiểm tra tính chất này để rơi một khối lượng lên vật liệu và đo lực tương đối cần để lọt vào hoặc bẻ gãy vật liệu. d. Độ cứng : Trong một vài thiết bị đóng gói dùng màng nhựa, tính chất này có thể là quan trọng. Nhưng nó cũng quan trọng đối với chai và các vật chứa khác mà ở đó bao bì rắn đòi hỏi giá trị bề dày thành tối thiểu và lực bền tối đa. Giá trị độ cứng cũng có thể đo được bằng cách đo và tính độ sai lệch vật liệu khi bị kéo căng. e. Độ chịu nhiệt : Bao gồm một số tính chất sau Điểm mềm : điểm mềm Vicat: Nhiệt độ khi một cây kim lọt vào 1 mm mẫu thử. Chỉ số chảy : là tốc độ chảy của nhựa nhiệt dẻo ở nhiệt độ cho sẵn dưới áp suất đặc biệt và qua khe có kích thước đặc biệt trong khoảng thời gian cho sẵn. Chỉ số chảy biểu diễn lượng nhựa chảy qua màng tính bằng gam trong 10 phút. Lực bền hàn nhiệt : biểu diễn lực cần để tách 2 bề mặt đã hàn bằng nhiệt ra khỏi nhau theo hướng vuông góc. PE có lưu hàn nhiệt rất cao và Cellophane thì cho giá trị thấp hơn nhiều. Đôi khi mối liên kết hàn nhiệt mạnh thì không cần thiết chẳng hạn như túi đựng kẹo và khoai tây chiên. 1 yếu tố khác được xét đến là màng nhiệt có trở nên giòn khi chịu nhiệt độ thấp hay không. Điều này rất quan trọng đối với bao bì của thực phẩm đông lạnh. Về mặt này PE tốt hơn Cellophane. Vật liệu cũng nên có tính ổn định nào đó để có khả năng chịu được nhiệt độ khá cao. Điều này rất cần thiết đối với loại túi đun sôi. Độ ổn định này có thể được mô tả như là khả năng chịu được sự thay đổi môi trường mà không mất đi những tính chất chủ yếu. f. Tính chịu được độ ẩm : Là yếu tố rất quan trọng khi cần xác định tính thích hợp của màng nhựa khi đóng gói nhiều loại sản phẩm. Một vài sản phẩm cần được bảo vệ không khí ẩm từ phía ngoài, 1 vài sản phẩm khác thì đòi hỏi phía bên trong không được phép bốc hơi xuyên qua bao bì. Có một vài phương pháp để xác định giá trị này, phương pháp đơn giản nhất là kéo căng một mẫu màng trên một vật có chứa nước, rồi đặt trong phòng kho có chứa chất hút ẩm để chất này hấp thu hơi nước truyền xuyên qua lớp màng. Lượng nước có trong vật chứa được trước và sau thời gian kiểm nghiệm và giá trị tốc độ truyền hơi nước (WVTR: Water Vapor Transmission Rate) hoặc tốc độ truyền hơi ẩm (MVTR: Moisture Vapor Transmission Rate) được diễn tả bằng lượng nước tính bằng gam khuếch tán qua 1m2 (hoặc 100in2) màng trong 24 giờ (g/m2/24h hoặc g/100 in2/24h). Hình 3: Tính chịu được độ ẩm là đặc tính cực kỳ quan trọng đối với bao bì thực phẩm g. Tính ngăn cản khí : Không giống với tính thấm hơi nước. Trong trường hợp này, tốc độ truyền các loại khí đặc biệt như N2, CO2 và nhất là O2 được xác định. Cà phê sống thường sinh ra khí CO2 mà khí này được phépthoát khỏi vật chứa, mặt khác khí này có thể gây bục vỡ do áp suất nội. Mặt khác O2 làm cà phê cũ đi và trong trường hợp này khí cần giữ ở bên ngoài. Vì vậy cần chọn vật liệu có tính thấm O2 thấp nhưng thấm CO2 cao. Một ví dụ khác cần tốc độ truyền cao là trường hợp đóng gói thịt tươi vì thịt cần O2 để giữ được màu đỏ tươi hấp dẫn khách hàng.Phương pháp xác định tính thẩm thấu khí là phải xác định được bao nhiêu lượng khí khuếch tán xuyên qua vật liệu trong khoảng thời gian cho sẵn, về nguyên tắc phương pháp này giống với phương pháp dùng để xác định WVTR đã nói ở trên. Đơn vị của giá trị này là cm3/m2/24h hoặc cc/100 in2/24h. h. Khả năng hàn nhiệt (Sealability) : Khả năng hàn nhiệt của các nhựa dẻo nhiệt phụ thuộc vào một số điều kiện sau : Nhiệt độ làm mềm ; nhiệt độ và áp suất tại mối hàn ; thời gian hàn nhiệt Cấu trúc của màng hoặc bản thân polymer. Tỉ lệ tao tinh thể trên tỉ lệ tạo cấu trúc vô định hình của polymer Lượng chất phụ gia i. Xử lý bề mặt (xử lý Corona) : Các loại màng có độ phân cực thấp (PE, PP) thường rất khó dính bám mực in và keo. Sự thấm ướt bề mặt của vật liệu phụ thuộc vào năng lượng bề mặt của chúng. Do vậy, để tăng đặc tính in của các vật liệu này người ta thường phải xử lý Corona. Một vài tính chất bổ sung của chất dẻo có thể được liệt kê và giải thích sau đây : Sự kéo giãn : là phần vật liệu nhựa sẽ giãn dài trước khi bị đứt. Vật liệu càng kéo giãn thì nó càng chịu được tải trọng va đập tốt hơn, ít bị đứt hơn. Điều này rất quan trọng nhất là đối với những bao nhựa đựng hàng nặng. Sự kéo giãn được diễn tả bằng phần trăm so với chiều dài ban đầu. Độ co giãn được diễn tả bằng phần trăm so với chiều dài ban đầu . PP và PVC có giá trị này khá cao , lên đến 450%, Polyester và PS có giá trị kéo giãn thấp nhất Độ cứng : của vật liệu plastic được xác định theo phương pháp Rockwell. Dùng viên bi bằng thép có đường kính đặc biệt và được cân với tải trọng khác nhau tác động lên vật liệu. Độ sâu của vết lõm khi tải trọng được lấy đi được đo. Giá trị Rockwell càng cao thì vật liệu càng cứng. Độ đàn hồi : Là yếu tố quan trọng liên quan đến bao bì nhựa dẻo. Nó diễn tả khả năng trở lại hình dạng và kích thước ban đầu của vật liệu sau khi bị biến dạng. - Người ta mô tả nó như là “trí nhớ”. Tuy nhiên nếu vượt qua giới hạn trí nhớ thì vật liệu vẫn ở trạng thái giãn dài và không thể trở lại trạng thái ban đầu được nữa. Đó là giới hạn đàn hồi. Một vài vật liệu như PVC dẻo có giá trị mô đun đàn hồi thấp và kéo giãn tốt, trong khi những loại khác như PS có giá trị mô đun đàn hồi cao và kéo dãn được ít. Độ ổn định về kích thước : trong một vài trường hợp có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự thay đổi độ ẩm tương đối bao quanh bao bì. Một vài loại vật liệu thì giãn ra , một vài vật liệu khác thì co lại, trong khi có 1 vài vật liệu khác không bị ảnh hưởng. Độ trượt : là tính ma sát xuất hiện khi màng nhựa tiếp xúc bề mặt với loại màng khác hoặc với 1 bộ phận thiết bị nào đó - Giá trị này có thể được đo bằng cách dùng bàn nghiêng ghi nhận lại góc độ nghiêng mà với giá trị này mẫu thử vượt qua được ma sát bề mặt. Độ trượt có thể điều chỉnh được bằng các phụ gia của màng Thí dụ, màng PS có 3 loại độ trượt : - Độ trượt cao, hệ số = 0,1 – 0,3 - Độ trượt trung bình, hệ số = 0.3 – 0.5 - Độ trượt thấp, hệ số > 0.5 Tính thấm dầu và mỡ : Rất quan trọng khi sản phẩm cần đóng gói chứa chất béo. Bề mặt bao bì có thể bị làm hỏng nếu như chất béo thấm qua màng bao bì ra ngoài. Để xác định tính thấm béo : người ta đặt một đống cát mịn được bão hòa bằng một lượngxác định dầu hoặc dầu thông, đặt mẫu thử lên trên và trên cùng đặt 1 miếng giấy thấm. Ghi lại thời gian cần để dầu thấm qua và để lại dấu vết trên giấy thấm Độ bóng và độ mờ : Là những tính chất quan trọng đối với bao bì nhựa dẻo vì rất nhiều khách hàng đòi hỏi vật liệu trong suốt phải có bề mặt bóng và sáng. Độ mờ xuất hiện dưới dạng màu đục sữa sẽ làm hạ thấp độ trong suốt của màng. Các giá trị so sánh là đo hệ số xuyên thấu và phản xạ đối với mẫu thử. Khả năng bốc cháy : Một vài loại màng dễ cháy như cellophan chẳng hạn, PE cháy chậm và cháy thành giọt. PVDC tự dập tắt nhưng PVC cứng rất khó cháy. 4. MỘT SỐ LOẠI MÀNG THÔNG DỤNG a. Polyethylen (PE) : Hiện nay PE trở thành quan trọng nhất trong tất cả các loại vật liệu nhựa. PE được phân loại thành các nhóm chính sau : LDPE - PE mật độ thấp, tỉ trọng = 0.91- 0.925 g/cm3 MDPE (LLDPE: Linear) - PE mật độ trung bình, tỉ trọng = 0.926 - 0.940 g/cm3 HDPE - PE mật độ cao, tỉ trọng = 0.941- 0.965 g/cm3 LDPE Quan trọng nhất và thông dụng nhất. Nó được sử dụng nhiều nhất để tạo màng mỏng để làm túi. LDPE dễ hàn nhiệt và là loại rẻ nhất. Trong các loại LDPE khác nhau bao gồm các loại có tácnhân trượt và đóng cục, chẳng hạn như đóng gói số lượng lớn thì cần hệ số trượt thấp để có khả năng xếp động tốt. Hoặc khi đóng gói hàng hóa mềm vào bao bì dạng túi thì cần hệ số trượt cao. LDPE thì mềm và dai. MDPE : Được dùng tạo màng mỏng hoặc dùng khi có yêu cầu cần độ cứng cao hơn hoặc nhiệt độ làm mềm cao hơn LDPE. MDPE thì hơi mắc hơn LDPE. HDPE : Cứng hơn hai loại trên. HDPE có thể chịu được nhiệt độ lên tới 120oC và vì vậy HDPE được dùng làm bao bì thanh trùng bằng hơi nước. HDPE cũng có thể được cắt thành những dây hẹp để dệt thành bao dệt. Tuy nhiên, để dệt thành bao người ta thường dùng PP Các loại PE khác nhau có một vài tính chất quan trọng đã làm chúng trở thành vật liệu bao bì thích hợp nhất. PE có tính ngăn cản nước và độ ẩm rất tốt, tính này càng tốt khi mật độ của PE càng cao. PE cũng có tính hàn nhiệt rất tốt và vẫn giữ được tính mềm dẻo ở mật độ rất thấp nó có thể được sử dụng ở điều kiện đông lạnh –50oC (–58oC). Khi thay đổi nhiệt độ thì độ nhớt của nó cũng thay đổi đều, vì vậy nó dễ xử lý và biến đổi. Về mặt sinh lý học, không có sự bất lợi nào liên quan đến PE vì khi cháy nó chỉ sinh ra khí CO2 và nước. Hình 4: Màng PE là loại màng thông dụng trong bao bì Tuy nhiên cũng có vài bất lợi, PE có tính thấm O2 khá cao, tính ngăn cản mùi hương bị giới hạn, tính kháng mỡ khá thấp, nhất là đối với LDPE. Khi PE được biến đổi không đúng, ví dụ như đun ở nhiệt độ quá cao, sẽ cho mùi khó chịu. Một vài thiết bị đóng gói không hoạt động tốt với LDPE bởi nó có độ cứng khá thấp.PE chỉ trong suốt khi nó được làm lạnh nhanh sau khi đun, tính trong suốt này do cấu trúc dạng tinh thể. Trong các trường hợp khác PE có màu hơi đục sữa. PE được dùng nhiều trong quy trình đun màng mỏng rồi biến đổi thành màng bọc,túi và bao tải. Nó cũng được đùn ra dưới dạng phủ lên lớp giấy hoặc giấy bìa và nó cũng là vật liệu được biến đổi nhiều nhất thành chai, lọ…Ứng dụng quan trọng nhất của PE là làm các loại nắp khác nhau. Tính trơ của PE cũng được chú ý đến. Màng mỏng PE định hướng và kéo căng sơ bộ được dùng nhiều dưới dạng màng co và màng căng.Tính chất của PE thay đổi tùy theo nhà sản xuất. Tuy nhiên, một vài đặc tính đặc trưng được trình bày dưới đây nhằm minh họa các đặc tính này thay đổi như thế nào khi mật độ thay đổi từ thấp tới cao. Loại PE Tốc Độ truyền hơi ẩm (1) Tốc độ truyền khí (2) Lực căng (3) O2 CO2 LDPE 1.4 500 1350 1700 MDPE 0.6 225 500 2500 HDPE 0.3 125 350 4000 Chú thích : (1) g/100 in2/24h/1mil 1 ounce (OZ) = 28,35g (2) cm3/100 in2/24h/1mil 1 pound (lb) = 16 OZ = 0,454Kg (3) 1lbs/ in2/1mil 1 stone (st) = 14 lb = 6,356Kg (1mil = 0,001 inch) b. Polypropylen (PP) : Là một loại nhựa olefin khác. Nó cứng hơn PE, có độ chịu căng giãn tốt hơn và trong suốt hơn. Giá trị của tính thấm hơi ẩm thấp. Do độ kết tinh cao, nhiệt độ làm mềm khoảng 150oC nên nó được sử dụng thành công khi tiệt trùng các sản phẩm y khoa trong nồi hấp… PP cũng được dùng dưới dạng bao bì cho thực phẩm làm sẵn đưa vào lò đối lưu hoặc đun sôi. Nó cũng thông dụng khi sản suất nắp đậy bằng phương pháp ép phun. Do mật độ của PP thấp (0.90 g/m3) và lực cao bền nên nó có thể tạo ra màng mỏng hơn làm cho nó có thể cạnh tranh với màng làm từ PE trong một vài ứng dụng đặc biệt. Nó cũng có thể dùng thay cho cellophan, ví dụ như dùng PP để bọc gói thuốc lá. PP có khuynh hướng trở nên giòn ở nhiệt độ thấp, điều này có thể vượt qua ở một mức độ nào đó, bằng cách đồng trùng hợp với một lượng nhỏ ethylene.PP được sử dụng nhiều dưới dạng màng mỏng, tương đối cứng, có khả năng ứng dụng giống với Cellophane nhờ tính trong suốt của nó. Màng PP được định hướng (OPP), nghĩa là kéo căng theo 1 hoặc 2 hướng, để có lực bền và độ cứng tốt hơn. Màng OPP có độ cứng vừa đủ nên dễ dàng xử lý nó nhiều loại thiết bị đóng gói, nó hoàn toàn trong suốt và có tính ngăn cản độ ẩm và mùi hương tốt. Tuy nhiên, màng PP rất khó hàn nhiệt mà điều này có thể vượt qua bằng cách đùn kép với PE. PP cũng được dùng làm nắp đậy và đã tìm thấy nhiều ứng dụng thành công trong khi PE bị gãy mặt dưới ảnh hưởng của một vài chất hoạt động bề mặt. Ứng dụng thông dụng của PP là dùng để dệt các bao tải. c. Polystyrene (PS) : Được sản xuất từ dầu thô bằng phương pháp trùng hợp styrene. PS thì hoàn toàn trong suốt nhưng tính ngăn cản độ ẩm và khí thấp. PS cứng nhưng độ kháng va đập thấp vì thế người ta thường trộn nó với loại cao su tổng hợp butadien để tăng thêm độ bền va chạm. Tuy nhiên, thêm butadien vào sẽ làm mất trong suốt và PS chịu va đập thường có màu trắng. PS rất dễ cho các quy trình dùng sản xuất bao bì. Nó có thể dùng để thổi ép phun, đùn, nhiệt định hình… Do mật độ khuyếch tán thấp mà nó ít sử dụng làm bao bì đóng gói mà phần lớn nó được dùng dưới dạng khay hoặc tách được định hình bằng nhiệt. Ứng dụng đặc trưng nhất của PS là các khay dùng để đóng gói rau tươi, và các tách dùng để đóng gói gia- ua và các sản phẩm được chế biến từ sữa… màng mỏng PS được dùng để bao gói trái cây, rau quả như cà chua, rau xanh. Sự định hướng 2 chiều sẽ làm màng PS có lực bền và tính dai cao hơn, nó được gọi là màng PS được định hướng (OPS) Polystyrene xốp (EPS) được sản xuất bằng cách xử lý đặc biệt trong các hạt PS. Đun nóng hạt PS bằng hơi nước để làm pentane có trong PS phồng lên rất nhanh và hình thành cấu trúc tổ ong, EPS thường được dùng để lót đệm giảm sốc cho các máy móc tinh vi trong bao bì. EPS cũng được dùng nhiều dưới dạng khay để đóng gói thịt cá tươi, trái cây tươi, sản phẩm nướng, trứng… d. Polyesters : Hoặc nhựa ester tuyến tính được sản xuất bằng cách ngưng tụ giống như polyamide. Nó đùn ra dạng mỏng và màng này được kéo căng theo 2 hướng. Polyester có lực bền cơ học cao và tính chịu được nhiệt độ lên đến 3000C. Mang Polyester có tính thấm độ ẩm và khí thấp trở lực đối với dung môi hữu cơ khá tốt. Nó có tính hàn nhiệt kém và vì vậy nó thường được ghép với PE.Màng Polyester có thể được phủ bằng PVDC và trở nên ít thấm khí và mùi hương. Kết hợp với màng nhôm và PE nó sẽ trở thành loại màng rất tốt cho việc đóng gói cà phê xay bằng phương pháp đóng gói chân không và đóng gói sản phẩm chế biến từ thịt… Thỉnh thoảng nó được dùng làm bao bì dưới dạng túi có thể đun nóng được, nghĩa là sản phẩm bên trong được đun nóng bằng cách đun sôi trực tiếp trong túi. Điều này có thể làm được do tính chịu được nhiệt độ cao của màng. Màng Polyester có thể được định hình bằng nhiệt đến một mức độ giới hạn và có loại Polyester có thể co được. Gần đây Polyester có một ứng dụng khá thú vị, đó là Polyethylene therephthalete (PET) dùng làm chai dựng nước giải khát có gaz. e. Polyamide (PA) hoặc Nylon : Có lực bền cơ học tốt và tính chịu nhiệt rất tốt . Có nhiều loại PA có nhiều điểm chảy lên đến 250oC. PA cũng được dùng trong cấu trúc màng ghép và nhất là dùng trong các thiết bị định hình nhiệt bằng bằng chân không để đóng gói sản phẩm được chế biến từ thịt được cắt thành lát mỏng, thịt tươi và phó mát. Màng ghép dùng PA có bề dầy mỏng. Kỹ thuật sản xuất màng PA mỏng thì khó và thường những màng này được ghép vớp PA có bề dầy khác nhau để cải tiến tính hàn nhiệt. PA được dùng rộng rãi làm bao bì tiệt trùng đóng gói các dụng cụ y khoa. f. Polyvinyl Chloride (PVC) : Được sản xuất thành 2 loại cứng và mềm dẻo. Loại PVC cũng có tính ngăn cản độ ẩm và khí tốt, tính kháng mỡ tốt. PVC cũng được dùng nhiều trong bao bì nhiệt định hình đóng gói bơ, dầu thực vật… Nhờ vào tính trong suốt mà PVC được dùng dưới dạng chai nước khoáng, dùng trong mỹ phẩm, dầu ăn và nước cốt trái cây. Một vài loại PVC chịu được áp suất khí bền trong chai nên được dùng để đựng bia và nươc uống có gaz khác. Loại PVC mềm dẻo dưới dạng màng mỏng dùng để đóng gói thịt cá tươi, trái cây, rau quả và các sản phẩm tươi khác. Màng PVC dẻo được dùng để bọc pallet nhằm giữ được toàn bộ hàng hóa trên pallet đó bằng cách quấn căng màng. Cũng có vài loại màng PVC dùng để bao gói để chống làm hàng giả. PVC có độ ổn định nhiệt khá thấp, vì thế người ta phải thêm chất ổn định vào để có thể đùn được PVC. Một vài quốc gia không chấp nhận tác nhân ổn định có chứa thiếc và trong hầu hết các quốc gia đều có luật nghiêm khắc về lượng tối đa của Monomer vinyl dư thừa trong sản phẩm cuối cùng. g. Polyvinylidende Cloride (PVDC) : Thường được đồng trùng hợp với vinyl chloride và được gọi là SARAN (tên thương mại). So với tất cả các màng nhựa khác, PVDC có tính thấm hơi nước, O2, CO2 thấp nhất. Nó có trở lực đối với chất béo và hoá chất tốt. Màng PVDC co được sản xuất dưới tên CRYOVAC (tên thương mại) Quy trình sản xuất màng PVDC bao gồm quá trình đùn sản phẩm dạng ống vào bể nước, sau đó thổi sản phẩm bằng không khí đến đường kính rất lớn, rồi định hướng màng theo 2 chiều. Màng PVDC được ép phẳng cắt dọc 2 bên hông và quấn thành cuộn. PVDC được dùng nhiều dưới dạng phân tán (phân tán trong nước) để phủ lên giấy và giấy bìa. Cấu trúc màng nhiều lớp cần thiết để cho kết quả tốt. PVDC được dùng cho các sản phẩm có yêu cầu rất kín như đóng gói phó mát và thịt gia cầm, thường đóng gói chân không trong màng co PVDC. Nó có thể được hàn nhiệt bằng máy hàn tần số cao hoặc máy hàn xung lực. PVDC thường được sử dụng cho những yêu cầu cao về tính ngăn cản do nó có tính ngăn cản tốt nhất so với các loại màng khác. Một vài thí dụ như cellophane tráng PVDC dùng cho bánh biscuit và các sản phẩm nhạy với độ ẩm. PVDC được dùng nhiều trong màng ghép phức tạp đóng gói thịt, loại màng đùn kép PE/ PVDC/PE là loại màng đùn rất quan trọng. h. Cellophane : Là nguyên liệu đứng đầu trong nhóm nguyên liệu cellulosic được sử dụng giống màng plastic. Cellophane là loại màng bao bì lần đầu tiên được dùng rộng rãi trong lĩnh vực thương mại và trong một thời gian dài dẫn đầu về số lượng Polyolefin, đặc biệt là PP dễ chiếm lĩnh thị trường của Cellophane nhưng Cellophane vẫn còn là vật liệu bao bì quan trọng trong 1 vài lĩnh vực. Cellophane được sản xuất bằng cách lấy cellulose có độ tinh lọc cao và được hòa với dung môi dể có 1 độ đặc giống như xi-rô . Hỗn hợp này được cho qua khe nhỏ và dài vào bể hoàn nhiệt để tạo thành màng mỏng. Vì vậy, nó được gọi là cellulose hoàn nguyên. Sau đó, màng được đi qua những dung dịch để tách tạp chất, lọc trở thành màng trong suốt. Từ Cellophane là tên thương mại với nghĩa thông dụng. Cellophanecó nhiều loại được làm phù hợp với nhiều ứng dụng khác nhau tỳ thuộc vào hệ thống mã số dùng để phân biệt các loại Cellophane Loại Cellophane được dùng nhiều nhất là MSAT với tính chống ẩm, khả năng hàn nhiệt, tính dính và độ trong suốt tốt. Cellophane thường được phủ với nitrocellulose hoặc PVDC. Lớp phủ này tăng thêm tính ngăn cản hơi ẩm và khả năng hàn nhiệt trong khi bản thân Cellophane có tính ngăn cản khí và mùi hương tốt. Nhờ vào tính trong suốt và cứng khiến cho màng Cellophane có thể chạy rất nhanh trên các máy đóng gói nên nó được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp dệt và bánh kẹo. Đôi khi màng Cellophane có tráng một mặt được dùng để đóng gói thịt tươi hay sản phẩm chế biến từ thịt. So với các loại màng nhựa đồng nhất khác, màng Cellophane phủ PVDC có khuyết điểm, đó là mối hàn nhiệt không chắc, nó bị hạn chế bởi lớp kết dính giữa lớp phủ và bề mặt Cellophane. Loại màng này có trở lực xé thấp và mối hàn dễ xé mở, nhưng đôi khi điều này sẽ trở nên thuận lợi, thí dụ cho việc mở các túi kẹo. Màng Cellophane có tính chất in tốt và có thể in thành công bằng tất cả phương pháp in thích hợp. Nhờ vào lượng nước còn chứa trong màng Cellophane mà màng có khả năng mềm dẻo. Nếu màng được sấy khô thì nó trở nên giòn và dễ xé. Ở nhiệt độ đông lạnh, việc chọn đúng loại màng Cellophane là rất cần thiết, bởi vì nếu chọn không đúng loại màng chịu được nhiệt độ thấp thì dễ dàng bị thất bại khi dùng. Phần lớn Cellophane được dùng trong ngành thực phẩm, thuốc lá, dệt và kẹo. Để gói kẹo người ta thường dùng loại màng ghép cellophane - sáp - cellophane hoặc Cellophane - keo - Cellophane và trong cả 2 loại việc in ấn được thực hiện giữa 2 lớp. Một ứng dụng quan trọng khác là màng ghép dùng đóng gói chân không cho thịt, phó-mát, cá, rau ngâm giấm… Hệ thống mã số của màng cellophane : Đặc tính của màng cellophane được thể hiện bằng sự kết hợp giữa chữ và số. Cụ thể là : A = Liên kết, dính (lớp phủ được kết dính với màng mỏng để tạo thành tính kháng ẩm) Adhere C = Được nhuộm màu (colored) D = Một nửa (lớp phủ chống ẩm chỉ phủ ở một phía) (Demi) L = Tính kháng ẩm thấp hơn tiêu chuẩn M = Chống ẩm (Moisture Nitrocellulose lacquered) P = Không phủ, không chống ẩm, không thể hàn nhiệt (plain unlacquered) S = Có thể hàn bằng nhiệt (sealed) T = Trong suốt không màu (transparent) X = Được phủ Polymer (PVDC,Saran) Chỉ số đứng trước chữ dùng để chỉ bề dày của màng và chỉ số đứng sau chữ là mã số chỉ cách sử dụng cuối cùng, thí dụ 250 MSAT 87 có nghĩa là vật liệu có tính chống ẩm có thể hàn bằng nhiệt, tính dính và trong suốt được dùng làm túi cho thực phẩm đông lạnh. Diện tích so với trọng lượng là 25.000in2/lbs. Tuy nhiên theo hệ thống đơn vị tính bằng mét, chỉ số 250 có nghĩa là 25g/m2.Do hệ thống mã số này thay đổi theo nhà sản xuất cho nên luôn luôn đòi hỏi nhà cung cấp để hiểu ý nghĩa chính xác của các loại màng. i. Cellulose Acetate (CA) : Có độ trong, sáng và vì vậy được dùng nhiều dưới dạng cửa sổ cho các túi và hộp carton, cũng như để bao gói bên ngoài các hộp quà… Cellophane Acetate cũng được dùng làm bao bì dạng ôm sát sản phẩm và dạng phồng bằng phương pháp nhiệt định hình. CA rất ổn định về kích thước khi thay đổi điều kiện độ ẩm và vì vậy thay thế cellophane để ghép với giấy dùng để bọc tập vở, sách, hàng… j. Al-foil (lá nhôm mỏng) : Trong công nghiệp người ta định nghĩa : lá kim loại có chiều dày từ 4.3-152 µm gọi là Foil. Do vậy, Al-Foil là cuộn nhôm mỏng có chiều dày < 152 µm Các nguyên tố thường có trong Al-Foil : Silicon, sắt, đồng thau, Mn, Mg, Cr, Zn, Ti... với hàm lượng < 4%. Tính chất : Bền hóa học : Al-Foil bền với các loại acid nhẹ tốt hơn so với kiềm nhẹ. Khi tiếp xúc với nước có chứa các muối kiềm thì có thể bị ăn mòn. Độ bền cao với hầu hết các chất béo, dầu mỡ và các loại dung môi hưu cơ. Bền nhiệt độ : Không bị ảnh hưởng bởi sự thay đội của nhiệt độ và ẩm độ. Dễ sử dụng trong quá trình tiệt trùng các bao bì có chứa các Al-Foil. Tăng cường độ bền, tính mềm dẻo ở nhiệt độ thấp. Ngăn cản được sự phá hủy của ánh sáng. Bền cơ học : Tuỳ thuộc vào lượng nguyên tố kim loại có chứa trong thành phần hợp kim cuả Al-Foil và mức độ xử lý nhiệt trong quá trình sản xuất Al-Foil mà tạo cho Al-Foil có tính chất cơ học rất linh hoạt. Ngoài ra Al-Foil còn có các tính chất cơ bản được dùng trong bao bì mà các vật liệu khác không có được là : tính chống khí, ẩm và ánh sáng rất tốt; tính ổn định ở nhiệt độ cao và thấp; dễ định hình. Công dụng : Dùng bao gói, trang trí. Ghép với bao bì thuốc lá. Kết hợp với các loại màng để làm bao bì dược phẩm, thực phẩm cao cấp. Dùng trong bao bì vô trùng, nắp tô mì, kem, sữa chua.. k. Màng Metalized : Màng Metalized được mạ lớp kim loại cực mỏng. Thông thường lớp kim loại được mạ là nhôm. Chiều dày lớp kim loại mạ tùy thuộc vào tính chất cần phải có như tính chống thấm khí, hơi ẩm và nước... của từng loại bao bì yêu cầu. Lớp mạ càng dày thì các tính chống thấm càng cao nhưng giá thành cũng tăng theo. Nguyên lý tạo màng Metalized: kim loại nhôm nóng chảy, bay hơi và ngưng tụ trên vật liệu màng (nền) đã xử lý một cách đặc biệt để tăng độ kết dính, trong điều kiện chân không. Lượng nhôm mạ tùy thuộc vào nhiệt độ của nhôm, tốc độ kéo màng đưa vào, số trạm mạ... Công dụng : Dùng để thay thế Al foil trong vài lĩnh vực. Dùng để cải thiện tính chất chống thấm của các sản phẩm sao cho đạt sự cân bằng thích hợp của các tính chất chống thấm đặc trưng, giá thành, hình dáng và phù hợp với các thiết bị gia công. Tuỳ thuộc vào chiều dày của lớp mạ trên màng mà nó cải thiện thêm các tính chất tự nhiên của màng nền. Ví dụ màng MOPP có tính chống ẩm cao hơn OPP 20 lần. Các loại màng Metalize thông dụng : MCPP : CPP Metalized MOPP : OPP Metalized MBON :Nylon Metalized MPET : Polyester Metalized Bảng Tính chất của một số loại màng đơn thông dụng trong bao bì Loại màng Polymer Khả năng chịu nấu sôi Khả năng ngăn cản hơi nước Khả năng ngăn cản khí Độ trong suốt Tính dễ in Khả năng chịu kéo LDPE Homopolymer + ++ - ++ + - LLDPE Co- polymer ++ ++ - ++ + - HDPE Co- polymer + ++ - - + + PP Homo/Copolymer ++ ++ - +++ ++ + BOPP Homo/Copolymer ±/++ +++ - +++ +++ - PET Homopolymer ± - - ++ + ++ BOPET Homopolymer ± - + +++ +++ - PA Homo/Copolymer - - ++ + + +++ BOPA Homopolymer - - ++ +++ +++ - Chú thích: +++: Rất tốt; ++: Tốt; +: Trung bình; -: Không tốt 5. Màng ghép (phức hợp) và các phương pháp ghép màng a. Màng phức hợp : Giới thiệu và ứng dụng Màng nhựa phức hợp hay còn gọi là màng ghép là một loại vật liệu nhiều lớp mà ưu điểm là nhận được những tính chất tốt của các loại vật liệu thành phần. Người ta đã sử dụng cùng lúc (ghép) các loại vật liệu khác nhau để có được một loại vật liệu ghép với các tính năng được cải thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu bao bì. Khi đó chỉ một tấm vật liệu vẫn có thể cung cấp đầy đủ tất cả các tính chất như: tính cản khí, hơi ẩm, độ cứng, tính chất in tốt, tính năng chế tạo dễ dàng, tính hàn tốt… như yêu cầu đã đặt ra. Tính chất cuối cùng của một loại vật liệu nhiều lớp phụ thuộc nhiều vào những tính chất của các lớp thành phần riêng lẻ. Màng ghép thường được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu cho bao bì thực phẩm, dược phẩm… Sự hình thành màng ghép là việc kết hợp có chọn lựa giữa màng nguyên liệu ban đầu, mực in, keo dán, nguyên liệu phủ... sử dụng các phương pháp gia công có nhiều công đoạn, đa dạng.Về mặt kỹ thuật vật liệu ghép được ứng dụng thường xuyên, chúng đạt được Các yêu cầu kỹ thuật, các yêu cầu về tính kinh tế, tính tiện dụng thích hợp cho từng loại bao bì, giữ gìn chất lượng sản phẩm bên trong bao bì, giá thành rẻ, vô hại …. Cấu trúc : Các polymer khác nhau được sử dụng tùy thuộc vào vai trò của chúng như là lớp cấu trúc, lớp liên kết, lớp cản, lớp hàn. Lớp cấu trúc : đảm bảo các tính chất cơ học cần thiết, tính chất in dễ dàng và thường có cả tính chống ẩm. Thông thường đó là những loại nhựa rẻ tiền. Vật liệu được dùng thường là LDPE, HDPE, EVA, LLDPE, PP (đối với những cấu trúc mềm dẻo) và HDPS hay PD (đối với cấu trúc cứng).Các lớp liên kết: là những lớp keo nhiệt dẻo (ở dạng đùn) được sử dụng để kết hợp các loại vật liệu có bản chất khác nhau. Các lớp cản: được sử dụng để có được những yêu cầu đặc biệt về khả năng cản khí và giữ mùi. Vật liệu được sử dụng thường là PET (trong việc ghép màng), nylon, EVOH và PVDC. Các lớp vật liệu hàn: thường dùng là LDPE và hỗn hợp LLDPE, EVA, inomer,… Một số loại màng phức hợp: 2 lớp: BOPP/PE; PET/PE; BOPP/PP; NY/PE 3 lớp : BOPP(PET)/PET (M)/PE; BOPP(PET)/Al/PE 4 lớp : BOPP(PET)/PE/Al/PE; Giấy/PE/Al/PE 5 lớp : PET/PE/Al/PE/LLDPE b. Các phương pháp tạo màng phức hợp : Giới thiệu chung các phương pháp ghép Màng phức hợp được tạo thành bằng cách Ghép hai hay nhiều lớp màng bằng chất kết dính Tráng lên một lớp màng vật liệu một lớp vật liệu khác ở dạng lỏng (nóng chảy) sau khi lớp vật liệu này nguội đi sẽ đông cứng lại Có ba phương pháp tráng ghép màng cơ bản thường được ứng dụng trong sản xuất bao bì mềm,trong đó mỗi phương pháp bao gồm các dạng riêng của chúng Tráng ghép đùn Đùn đơn Đùn trước và sau Đùn kép Ghép khô Ghép có dung môi Ghép không dung môi Ghép kết hợp Ghép ướt Phương pháp ghép ướt Ở phương pháp ghép ướt là phương pháp ghép bằng keo, tại thời điểm ghép hai lớp vật liệu với nhau chất kết dính (keo) ở trạng thái lỏng. Đây là phương pháp ghép được sử dụng khá rộng rãi đặc biệt ứng dụng nhiều nhất khi ghép màng nhôm với giấy. Keo sử dụng trong phương pháp ghép này là dạng keo polimer nhân tạo gốc nước.Trong quá trình ghép keo ở trạng thái lỏng chúng sẽ thẩm thấu qua một lớp vật liệu và bay hơi sau đó. A. Cuộn xả 1 E. Bộ phận ghép dán B. Bộ phận tráng keo F. Các lô ép và căng màng C. Bộ phận sấy G. Cuộn thu D. Cuộn xả 2 Keo được tráng lên lớp vật liệu 1 ít có tính thấm nước hơn, sau đó ngay lập tức được ghép với lớp vật liệu thứ 2. Bộ phận ghép gồm cặp lô trong đó có một lô được mạ crom và một lô cao su. Sau khi ghép nước chứa trong keo sẽ bay hơn tại đơn vị sấy, keo khô tạo kết dính giữa hai lớp vật liệu. Phương pháp ghép khô Ghép khô không dung môi : Là phương pháp ghép bằng keo, như tên công nghệ đã chỉ ra, kỹ thuật ghép màng không dung môi không sử dụng tới các loại keo có gốc dung môi mà sử dụng loại keo 100% rắn. Nhờ đó ta có thể giảm một cách đáng kể việc tiêu thụ năng lượng tiêu tốn cho các công đoạn sấy khô dung môi trong keo hoặc cho việc thổi và thông gió. Keo được sử dụng là loại keo 1 hoặc 2 thành phần, loại keo một thành phần được dùng chủ yếu để ghép với giấy. Để ghép bằng keo không dung môi, đòi hỏi phải có bộ phận tráng keo đặc biệt, bằng cách dùng trục tráng keo phẳng thay vì trục khắc, gồm các trục được gia nhiệt và các trục cao su. Sức căng bề mặt của màng phải được chú ý đặc biệt, để xử lý độ bám dính, vì độ bám dính ban đầu của keo rất yếu khi chưa khô. Lớp keo được tráng vào khoảng từ: 0.8-1.5g/m2. Các ưu điểm của công nghệ ghép màng không dung môi như sau : Giảm được tiếng ồn do bởi không có hệ thống thông gió Không còn sót dung môi trong lớp màng đã ghép, do đó rất thích hợp cho việc dùng làm bao bì thực phẩm, dược phẩm. Không gây ô nhiễm không khí Chi phí đầu tư thấp Không cần sấy qua nhiệt Không cần bảo vệ sự nổ gây ra dung môi Yêu cầu về mặt bằng ít Chi phí sản xuất thấp Tốc độ sản xuất cao Công nghệ ghép màng không dung môi là công nghệ ghép màng tiên tiến nhất hiện nay trong lĩnh vực ghép màng, các nhà sản xuất và biến đổi bao bì trên thế giới đang chuyên sang phương pháp ghép màng không dung môi này.
Lên phía trên
Các phương pháp làm khô mực in ?
Câu hỏi:

Các phương pháp làm khô mực in ?

Trả lời:
CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM KHÔ MỰC IN
Thuật ngữ “khô” của mực bao gồm tất cả các quá trình từ sau khi mực được truyền và bám dính từ bản in qua cao su (đối với in Offset) lên vật liệu in. Qua đó đảm bảo sự liên kết chặt chẽ và ổn định giữa mực in và Vật liệu in, mực in sẽ trở nên đông cứng lại trong suốt quá trình khô này, đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện công đoạn thành phẩm và sau đó là đảm bảo tính tiêu dùng của sản phẩm.
Tùy thuộc và cấu trúc của loại mực, quá trình khô là kết quả từ các phản ứng hóa học (như oxyhóa, polymehóa) hay các quá trình vật lý (thấm hút, bay hơi) hoặc cũng là sự kết hợp của cả hai phương thức vật lý và hóa học. Bảng dưới đây sẽ cho ta có một cái nhìn tổng quan về các phương thức làm khô và các ứng dụng chủ yếu trong mỗi phương pháp in

Hình 1: Các quá trình làm khô.
a. Tổng quan về các kiểu và hiệu ứng làm khô.
b. Các phương pháp làm khô, hiệu ứng khô và ứng dụng của chúng.
Hình 8.2 mô tả máy in Offset tờ rời được tích hợp một số hệ thống làm khô trong bộ phận dẫn giấy ra. Sự khác nhau về cách làm khô giữa mực in và các loại varnish đòi hỏi phải có các hệ thống làm khô khác nhau – cũng như là một hệ thống làm khô phối hợp – để có quá trình làm khô tốt nhất. Nó có thể kết hợp cả hai cách làm khô bằng UV và IR để tăng thêm nhiều khả năng in của máy in 

Hình 2: Kết hợp nhiều thiết bị sấy khô trong máy in Offset tờ rời.
Cấu trúc của mực in phải đáp ứng thỏa đáng cho hai đòi hỏi rất mâu thuẩn nhau trong tính chất của cách khô và hoạt động sản xuất, đó là:
·  Không khô trên hệ thống các lô mực (hệ thống cấp mực nói chung) trong quá trình in hay trong thời gian dừng máy (chế độ chờ).
·  Khô nhanh và bám chặt vào bề mặt vật liệu in sau khi in.
Các nhân tố quan trọng quyết định đến thuộc tính khô của mực in:
·  Cấu tạo của mực: Bao gồm cả chất dẫn, chất mang và các chất phụ gia.
·  Những đặc trưng của vật liệu in (Vd: khả năng thấm hút)
·  Điều kiện in (Vd: độ che phủ mực, tờ in chất đống cao, tốc độ in…)
·  Điều kiện khí hậu (độ ẩm, nhiệt độ phòng…).
·  Cấu trúc thiết bị làm khô (dòng không khí trên bề mặt mực, thời gian phản ứng, dạng cung cấp năng lượng…).
Nhiệt độ là nhân tố quyết định. Nhiệt độ cao có nhiều lợi thế hơn:
·  Tốc độ polymer hoá được đẩy nhanh thêm.
·  Độ nhớt của mực thì bị giảm để hỗ trợ cho việc thấm hút.
·  Làm dung môi bay hơi nhanh hơn.
Mức độ liên kết giữa mực in và bề mặt của vật liệu in sẽ thay đổi sau khi quá trình khô hoàn tất. Khi đó nó có thể gây một số tác động lên tờ in, các tác động này được phân loại tiêu biểu như : chống trầy xước, bền khi chịu ma sát, chống đóng cặn
1. Khô vật lý (Sự thấm hút)
Sự thấm hút diễn ra được là nhờ hoạt động hướng vào trong vật liệu in của mực  in. Mực thấm hút vào giấy bằng các ống mao quản nhỏ trong giấy. Nó tuỳ thuộc và độ nhớt của mực, chất liên kết và khả năng chứa của vật liệu in. Các thành phần trong mực in sẽ thấm hút vào vật liệu ngay khi nó vừa bám lên bề mặt vật liệu, nhờ lực hút của các mao quản trong giấy. Sự thấm hút trong vật liệu tuỳ thuộc vào tốc độ thấm hút của vật liệu. Tốc độ thấm hút được quyết định bởi trạng thái của các lỗ mao quản và chất lượng thấm ướt bề mặt vật liệu của mực. Trạng thái của các lỗ mao quản được đặc trưng bởi số lượng lỗ mao quản trên một đơn vị diện tích và kích thước trung bình của lỗ. Hơn thế nữa, tốc độ thấm hút sẽ càng lớn khi độ nhớt của mực càng thấp.

Đồ thị như trong hình 3 minh họa cho sự phụ thuộc của lượng mực thâm nhập vào bề mặt vật liệu so với khả năng thấm hút của vật liệu. Trong một bài kiểm tra, mật độ quang học của lớp màng mực in trên được truyền qua từ tờ in dùng để đo độ khô (không thấm hút) được đo đặc có liên quan đến chu kỳ khô (tờ kiểm tra là tờ chưa 
được in đặt đối diện với hình ảnh vừa mới được in ở tờ in thử, đo mật độ quang học của lớp mực bám trên tờ thử nghiệm này trong một điều kiện nhất định cho thấy mức độ khô của nó). Đồ thị cũng cho thấy, với các vật liệu không thấm hút, đường biểu diễn mật độ đo được vẫn còn rất cao sau khi in đã 120 phút – Nó chưa khô hoàn toàn. Mức độ thấm hút được nâng cao rõ rệt khi diện tích các lỗ mao quản trên bề mặt nhỏ dần.
Hình 3 : Đồ thị biễu diễn mối liên hệ của sự thấm hút mực, bề mặt vật liệu và thời gian khô
Thể tích thấm hút quá cao của vật liệu có thể là nguyên nhân làm suy yếu chất liên kết trong mực in. Mực in bị mất độ chói sáng, tính chống trầy xước và pigment có thể bị chùi sau khi in. Do đó phải lựa chọn giấy có hiệu ứng phân tách tốt, bởi vì giấy có mật độ mao quản cao và nhỏ sẽ là điều kiện in tốt và cũng tạo thuận lợi cho việc sấy khô.
Sự thấm hút phụ thuộc vào thể tích thấm hút của vật liệu, cũng như phải phụ thuộc vào độ nhớt của mực. Tốc độ thấm hút cũng phụ thuộc vào độ thấm ướt giữa mực in và vật liệu in.
Trong in báo phương thức làm khô chỉ dùng hiệu ứng thấm hút (coldset). Quá trình thấm hút tách các chất mang ra thành hai phần và quá trình khô hoàn thành. Thông thường, mực in dùng cho in báo không có dầu khô trong thành phần (dầu khoáng). Trong trường hợp mực in dùng chất dẫn có dầu làm khô,  quá trình làm khô hóa học như oxyhóa diễn ra sau khi thấm hút.
  
Hình 4 : Đồ thị biễu diễn mối liên hệ giữa độ nhớt của mực và thời gian khô (đo theo mật độ)
1.1 Làm khô bằng tia hồng ngoại (IR – Infrared)
Sự thấm hút mực in sẽ nhanh hơn nếu độ nhớt của mực thấp. Độ nhớt giảm khi nhiệt độ tăng. Màng mực có thể được truyền với sự tăng gia nhiệt khi tiếp xúc với vật liệu in bởi nguồn phát IR. Hiệu ứng khô bằng IR trong in Offset (hình 8.2) được mô tả như  sau:
·  Làm giảm độ nhớt của dầu trong mực nhờ nguồn nhiệt trong khi thấm hút nhanh.
·  Quá trình oxi hoá làm diễn ra nhanh chóng trong mực (phần được thấm hút).
·  Quá trình oxi hoá diễn ra nhanh hơn nhờ tỷ lệ nước rất nhỏ trong lớp mực .
Quá trình khô hóa học (oxyhóa) tiếp ngay sau quá trình khô vật lý cũng nhanh hơn khi nhiệt độ tăng. Những quá trình trên có thể nhận thấy ở hầu hết loại mực in offset. Sự cân đối trong dải bước sóng tương ứng với bức xạ IR và các thành phần của chất dẫn có tính thấm hút trong một khoảng tần số sẽ giúp gia tăng hiệu quả của bức xạ. Hiệu quả của nguồn bức xạ IR đạt được tối đa nếu năng lượng của nguồn bức xạ là lớn nhất và sự thấm hút của mực in (hay varnish) lớn nhất khi cả hai yếu tố diễn ra đồng thời.
Dải bước sóng trong quang phổ IR với khoảng bức xạ điện từ được thể hiện trong hình 8.5, bức xạ hồng ngoại được dùng theo từng mức độ của các bước sóng:
· Dãi các bước sóng ngắn (từ 0.8-2µm tương ứng với đèn dùng phát dây tóc hình xoán ốc có nhiệt độ từ 2.700 – 1.500C) nguồn bức xạ dùng cho loại mực thấm hút chủ yếu trên giấy.
· Dãi các bước sóng trung bình (2-4µm tương ứng với nhiệt độ từ 1.500 - 750C) không khí được gia nhiệt tác động chủ yếu lên lớp mực.
Kinh nghiệm cho thấy sự thấm hút của mực tốt nhất khi dùng nguồn bức xạ IR ở dãi sóng ngắn hoặc trung bình. Hơn nữa, nguồn bức xạ sóng ngắn có năng suất và hiệu quả cao hơn. Các thiết bị làm khô NIR (vùng gần tia hồng ngoại 0.8-1.2 µm) làm việc trong vùng có bước sóng thấp hơn dải sóng ngắn. Nguồn bức xạ sóng dài (4 µm -1mm) không phù hợp cho việc làm khô trong Offset.
Sự thấm hút có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc làm khô mực nhanh chóng, làm khô bằng IR đạt hiệu quả tốt nhất chỉ khi có sự thấm hút trên bề mặt vật liệu được in. Biểu đồ trong hình 5.5 mô tả hiệu quả của bức xạ IR trên bề mặt có tính thấm hút:
Bức xạ nhiệt IR cũng gây tác động nhiệt lên tất cả các vùng trên giấy, nó làm tăng nhiệt độ trong các mao quản (hơn 40C) và giúp đẩy nhanh quá trình polyme hóa trong mực. Những thuận lợi và hạn chế của việc dùng nguồn bức xạ IR trong quá trình làm khô mực được trình  bày như trong bảng.
 

1.2  Khô nhờ quá trình bay hơi
Trong mực in gồm có nhiều thành phần như: Các loại nhựa, pigment, dung môi. phương pháp làm khô này ở một mức độ nhất định làm bay hơi các chất trong thành phần mực. Quá trình này như sau:
·  Sự chuyển biến từ chất lỏng (dung môi) sang trạng thái hơi.
·  Sự thoát ra của dòng khí hoặc dòng khí thổi dung môi bay đi.
Như là một quy tắc, hệ thống làm khô chỉ cung cấp một nguồn nhiệt chung được thổi thành một dòng khí, không cần quan tâm đến loại nhiệt năng, hiệu suất kinh tế và phải cẩn thận trong cách xử lý sản phẩm được làm khô. Quy tắc này mang tính riêng biệt khi thiết kế cho các loại máy in vì vật liệu in sẽ bị nóng lên một chút dẫn đến những khó khăn khi in như chồng màu không chính xác, tính co giãn của vật liệu và bị cong. Dung môi bay hơi khi mực in được làm khô bằng cách bay hơi. Quá trình khô được quyết định bởi nhiệt và vật liệu truyền nhiệt (cách truyền nhiệt) trong giới hạn của lớp màng trên bề mặt dung dịch (mực in).
Nhiệt độ bề mặt, tốc độ không khí thổi dọc trên toàn bộ bề mặt vật liệu sẽ tốt hơn áp lực thổi cục bộ khác nhau tại từng vùng, đây là thông số chính quyết định tốc độ khô. Việc khô nhờ sự bay hơi sẽ nhanh chóng hơn khi thêm vào đó có sự đối lưu. Bởi vậy sự nóng lên thông qua nguồn bức xạ nhiệt hoặc hỗn hợp khí nóng luôn được kết hợp với điều kiện dẫn không khí thuận lợi nhất. (Hình 5) dưới đây mô tả hệ thống thổi khí đứng dùng trong in ống đồng.
Phương pháp làm khô này rất quan tâm đến khí động học. Như cách làm khô bằng luồng hơi thẳng đứng dùng cho các loại mực in có thành phần dung môi ở nhiệt độ sôi thấp, đây là các loại dung môi chủ yếu trong mực in ống đồng và Flexo. Hơi nước và các chất hữu cơ tạo ra được hấp thụ bởi than (Carbon) hoạt tính trong hệ thống có thể thu hồi dung môi.
Quá trình thu hồi dung môi như sau:
·  Dẫn truyền dung môi (dẫn qua buồng thấm hút): Luồng khí thải có thành phần là dung môi được hút bằng quạt hút tại điểm bay hơi (Vd: trong máy in ống đồng, làm khô bằng các vòi khí đứng) và được vận chuyển từ dưới đi lên bởi nhiều bộ lọc hút được làm từ  Cacbon (C) hoạt tính. Dung môi bị hút vào than hoạt tính. Không khí đã được làm sạch dung môi bốc lên trên ra khỏi hệ thống. Dung môi và hơi nước tiếp tục được đưa vào, sức chứa của các miếng thấm hút có thể bị quá tải. Khi đó khí thải sẽ theo các ống thu trong buồng lọc chảy xuống bộ ngưng tụ.
·  Thu hồi dung môi: Chiết xuất lại than C hoạt tính là cách tái sinh trực tiếp bằng cách đảo ngược lại quá trình bay hơi của hơi nước (ngưng tụ lại). Than hoạt tính khi làm việc có nhiệt độ khoảng 1000C, dung môi bao gồm dung môi có điểm sôi cao – là dung môi thoát ra từ mực dưới dạng hơi. Chúng ngưng tụ lại trong nước củabình ngưng tụ và được tách ra. Dung môi thu được lúc này hoàn toàn có thể tái sử dụng.
1.3  Sấy nhiệt (Heatset)
Khác với in ống đồng, các loại mực in dùng cho in offset cuộn trong thành phần bao gồm phần lớn là dầu vô cơ có điểm sôi cao. Các loại dầu có điểm sôi thấp không thể dùng cho mực này vì nó bị khô trên hệ thống lô mực ngay trong khi truyền mực. Mực heatset dùng cho in offset cuộn trong thành phần loại dầu vô cơ có điểm sôi cao chiếm tỷ lệ 20%-40%. Đương nhiên nó phải được pha vào một cách thích hợp cho phương pháp khô nhờ bay hơi đựơc dùng phổ biến trong offset cuộn



Hình 5 : Hệ thống sấy trong máy in cuộn (khô chỉ định)
“ Khô theo sự chỉ định“ - tức là dùng hệ thống sấy với một nhiệt độ phù hợp để mực phải khô theo tốc độ chạy của máy in - chủ yếu được dùng như là một đơn vị làm khô chủ yếu trong máy in offset cuộn, Băng giấy được di chuyển tiếp xúc tự do với hơi nhiệt trong suốt quá trình làm khô mà không cần tiếp xúc với các phần tử (lô) dẫn giấy. Điều này đạt được nhờ quạt gió thổi dòng không khí nóng trực tiếp. Sự luân chuyển dòng khí nóng đã phân chia cho phép thổi khí ở cả hai mặt của băng vật liệu. Chúng rất phổ biến với các loại máy in Offset cuộn tốc độ cao, trong suốt quá trình khô, không có bất cứ sự tiếp xúc nào lên bề mặt vật liệu. Hệ thống sấy khô đang thay đổi mạnh mẽ được phân loại theo cơ cấu ứng dụng loại dòng không khí tới bề mặt của giấy. In cuộn cần có tiêu chuẩn cao đối với cách vận chuyển giấy, thiết bị máy móc và kỹ thuật điều khiển để đạt được điều kiện khô tốt nhất, kinh tế nhất trong chu trình sản xuất. Không khí được thải trực tiếp sau khi đốt cháy, nhiệt độ phát sinh trong quá trình cháy này được dùng trở lại để gia nhiệt cho quá trình làm khô.
1.4  Các vấn đề trong thực tế sản xuất
Nhìn chung, Phương pháp khô vật lý bị ảnh hưởng bởi nhiều thông số khác nhau. Một vài dẫn chứng như sau:
·  Việc làm khô trở nên khó khăn nhiều hơn nếu tốc độ thấm hút giảm, hoặc độ che phủ mực tăng lên trên vùng có hình ảnh, hoặc khi số lượng các lỗ mao quản của vật liệu tăng lên.
·  Sự phồng giộp giấy có thể xảy ra với giấy có mao quản cao, tráng phủ hai mặt và giấy cán láng có định lượng cao. Thể tích thấm hút hơi nước làm giảm đến mức nhỏ nhất mật độ (độ chặt) của bề mặt. Mực bám dínhcao có thể là nguyên nhân khiến nhiệt độ tăng quá cao – đặc biệt là thời gian làm khô ngắn – hơi ẩm phát sinh gây ra sự không đồng nhất của giấy, hậu quả là giấy bị phồng giộp lên và làm tăng lượng giấy hư. Nhiệt độ của hệ thống làm khô và tốc độ in khi đó cần giảm xuống.
·      Việc làm khô phụ thuộc vào tốc độ của băng giấy khi nó đi qua thiết bị sấy. Nhiệt độ của nguồn sấy cần phải tương ứng với số lượng mao quản của giấy. Khi số lượng mao quản nhiều, nhiệt độ cũng phải cao. Để đủ cho mực khô hoàn toàn, băng giấy cần giữ trong khu vực làm khô từ  0.8-1s. Nếu tờ giấy được dẫn truyền với tốc độ 8m/s, hệ thống sấy cần có độ dài tối thiểu 8m. Hệ thống làm khô vì thế cần một khoảng không rộng. Suốt quá trình khô giấy bị khử  ẩm làm cho tờ giấy có thể trở nên dể gãy, gợn sóng và bắt đầu co lại. Vì vậy việc thành phẩm (gấp, cấn...) sẽ trở nên khó khăn. Vì lý do này, phủ ẩm trở lại cho giấy được dùng trong các máy in Offset cuộn. Nước được phủ lên băng giấy bằng vòi phun hay bằng các lô lạnh.
2.  Khô hóa học (sự lưu hóa) :
2.1 Phản ứng Oxy hóa
Đối in offset trên vật liệu thấm hút, mực trước hết khô bởi sự thấm hút và sau đó là bằng oxi hoá và polyme hóa (sự trùng hợp hay lưu hóa). Sự khô hoàn toàn của màng mực chính là kết quả của sự oxy hoá và sự trùng hợp của những loại dầu làm khô và nhựa thông. Để chống lại sự mài mòn và chà sát do những tác động bên ngoài, mực in phải tạo ra đủ các liên kết và sự bền chặt cần thiết, tuy nhiên vẫn phải duy trì sự co giãn, mềm dẻo cho sản phẩm.
Làm khô bằng Oxy hóa các loại mực in Offset là các loại mực trong thành phần có các loại dầu khô mà không cần bổ sung thêm các chất phụ gia bằng phản ứng liên kết với các phân tử với O2  từ không khí. Bằng cách đó, lớp mực trên tờ in sẽ liên kết với nhau nhờ lượng O2 cung cấp vừa đủ trong quá trình chuyển giấy ra thành chồng (ở máy in tờ rời). khoảng không gian cần thiết giữa các tờ in có thể được tăng lên bằng các hạt bột nhỏ, và O2 có thể phân tán đều vào trong chồng giấy. Bột phun vào hỗ trợ khô cho chồng giấy chứa các tờ đã in và cũng để tránh những vết bẩn ở những tờ in trước dính vào mặt lưng của tờ in sau (quệt lem, dạm...).
Mặc dù đã sử dụng chất xúc tác để tăng tốc độ khô trong mực in, nhưng việc khô bằng cách oxy hoá cũng khá mất thời gian. Các muối kim loại như Cobalt và Mangan kết hợp với acid có thể tan trong dầu được sử dụng như những chất xúc tác.
Chất làm khô Cobalt trong mực được xem như là chất làm khô “bề mặt“, nghĩa là quá trình được bắt đầu từ bề mặt mực và sau đó chậm dần khi vào bên trong vật liệu, nhiệm vụ của Mangan là tham gia vào suốt quá trình làm khô. Việc sử dụng hỗn hợp trên như một máy sấy bảo đảm cho quá trình làm khô đơn giản. Có một số lượng tối ưu chất phụ gia được thêm vào mực để kết hợp mực in và vật liệu. Việc thêm vào quá nhiều chất phụ gia có thể là nguyên nhân làm mực khô ngay trên những các lô mực.
Các thông số ảnh hưởng đến quá trình làm khô mực:
·  Đối với mực in : Pigment, chất dẫn (chất liên kết), tác nhân làm khô.
·  Đối với vật liệu in: độ pH, thành phần của chất tráng phủ, khả năng thấm hút, tính hút nước, nhiệt độ trong chồng giấy.
Trong in Offset
·  Dung dịch làm ẩm: Độ pH, Lượng muối trong nước, độ cứng của nước, tỷ lệ cồn


(Hình 6)  biễu diễn dãy quang phổ bức xạ điện từ  dành riêng cho việc làm khô mực. Sự bức xạ IR không có ảnh hưởng trực tiếp đối với khô bằng hoá học (oxy hóa), nó chỉ đơn thuần làm tăng nhiệt độ dẫn tới việc tăng tốc độ phản ứng. Tuy nhiên, bức xạ UV và bức xạ Ion hóa (EB-dòng tia electron) tạo ra phản ứng hóa học cho sự khô của mực.
2.2 Làm khô bằng tia UV
Làm khô mực (và Varnish) bằng UV về cơ bản là Polyme hóa các chất liên kết trong thành phần mực. Mực UV chỉ tương ứng với hệ thống làm khô bằng tia UV và rất phù hợp cho máy in Offset tờ rời và các máy in cuộn. Các đèn sấy UV làm khô đặt giữa các đơn vị in để làm khô mực hoàn toàn trước khi đến đơn vị in kế tiếp hoặc giữ cho lớp mực in ở mặt trước không bị lột ra khi dùng các cơ cấu in đảo trở trong máy in Offset tờ rời (hình 6). Trong in ống đồng và Flexo, hệ thống sấy UV được đặt ngay sau mỗi đơn vị in vì do đặc tính của mực in loãng và phải khô trước khi in màu kế tiếp. Các hệ thống làm khô rất cần thiết, thông thường chúng được đặt ngay sau đơn vị in cuối cùng, có thể có hiệu suất rất cao.Trong trường hợp làm khô bằng UV, màng mực đươc trùng hợp (polyme hóa) và khô hoàn toàn ngay khi phát bức xạ. Sự trùng hợp diễn ngay lập tức trong vài phần của giây.
Tuy nhiên, phương pháp sấy khô bằng UV đòi hỏi một loại mực đặc biệt bao gồm những chất liên kết hoàn toàn khác nhau (chất dẫn) và bổ sung cho ion quang hoá. Màu đen ngăn cản sự bức xạ của UV khi nó xuyên qua lớp mực và sự lưu hoá thấp hơn những màu sắc khác hoặc mực Varnish.
Làm khô UV truyền thống bằng cách dùng một hoặc vài đèn hơi thuỷ ngân (hình 8.11) Phạm vi bước sóng của nó trong khoảng 100-380 nm. Hệ thống này có chóa đèn để  phản xạ nhiệt (ánh sáng). Điều kiện làm việc tốt nhất là phải làm mát đèn và hút khí ozone sinh ra trong khi đốt là các yếu tố cần thiết để hệ thống làm việc hoàn chỉnh. Những loại đèn này được thiết kế và sử dụng không vượt quá ngưỡng giá trị giới hạn là 0.1ppm (1 ppm =1 phần triệu) để tránh làm hư hại đến quá trình làm việc của hệ thống và sức khoẻ của người vận hành.


Excimer
Bức xạ EXCIMER là một kiểu đặc biệt của đèn UV (hình 6) với ánh sáng đơn sắc (hầu như chỉ sử dụng bước sóng dài là 308 nm). Những ưu điểm của bức xạ này là :
·  Không làm nóng giấy in và không phát sinh tia IR
·  Không có ozone phát sinh ở bước sóng 308 nm.
·  Tận dụng tối đa sự nhạy cảm của dòng điện cho quá trình sấy khô.
 


Những bất lợi còn tồn tại ở hệ thống này là:
·  Công suất của nó (trên 50W/cm chiều dài bức xạ) hiện tại vẫn còn thấp hơn đáng kể so với công suất rất cao của đèn hơi thuỷ ngân (trên 250W/cm). Khi phát bức xạ nó tạo ra khí trơ trong không khí (khí nitrogen), dù vậy nó sử dụng hiệu quả cho một số kiểu làm khô yêu cầu cách làm khô này.
·  Một số hệ mực in cần có sự điều chỉnh độ dài bước sóng riêng biệt cho phù hợp khi bắt đầu tạo màng. Các loại bóng đèn UV truyền thống là loại đèn phát ra nhiều bước sóng (đa sắc), vì thế nó có phổ lớn hơn nhiều so với bước sóng cần sử dụng.
Hệ thống Excimer rất phù hợp với in flexo, nhất là khi in các loại vật liệu có tính nhạy cảm với nhiệt. Những ưu và nhược của cách làm khô bằng UV được trình bày trong bảng dưới đây:
 


2.3  Làm khô bằng chùm tia điện tử (EBC)
Chùm điện tử là nguồn bức xạ ion hoá có năng lượng cao kích thích những phân tử trong chất liên kết của mực in bị ion hoá, vì đó là nguyên nhân giải phóng các gốc tự do. Ngày nay, làm khô bằng các chùm điện tử được sử dụng cho những sản phẩm in đặc biệt (bao bì thực phẩm, các loại mực khô nhờ thấm hút và không phá vỡ cấu trúc phân tử của vật liệu), được sử dụng với những hệ thống làm khô thích hợp và mực in rất đắt.
Về nguyên lý, dựa vào những yếu tố cơ bản, chất liên kết dùng trong mực và mực in UV cũng có thể được sử dụng cho phương pháp làm khô bằng EBC. Do dùng năng lượng cao, chỉ có một số bức xạ đủ khả năng ban đầu để chất liên kết tự kích thích, do đó không cần phải thêm chất ổn định cho mực. Tuy nhiên, thực chất yếu tố cần thiết là phải sử dụng bức xạ trong khí trơ vì sự có mặt của khí O2 không chỉ làm trở ngại đáng kể sự lưu hóa (kết màng), mà còn dẫn đến sự giảm bức xạ. Sự oxi hoá làm phai nhạt lớp mực và có thể cả vật liêu in. Nếu khí O2 bị loại trừ, thì các bức xạ làm khô lớp mực chỉ gây thiệt hại tối thiểu (không đáng kể). Với phương pháp làm khô bằng chùm điện tử không gây ra nhiệt trên vật liệu in  hoặc lớp mực in.
Tia Electron nhiệt phát ra từ dây tóc bóng đèn làm bằng Vonfam là nguồn phát xạ tia điện tử. Cấu tạo của đèn được thể hiện như trong hình 8.13. Ưu và nhược của cách làm khô bằng EBC được trình bày trong bảng.
 


3.  Các thiết bị trợ khô
Quá trình làm khô truyền thống đối với Letterpress hoặc Offset tờ rời trải qua hai bước: thấm hút vào giấy, tiếp theo là quá trình oxi hoá, polyme hoá mực in.
     Quá trình thấm vào diễn ra ngay lập tức khi mực in truyền qua vật liệu (giấy). Sự thấm hút mực có độ nhớt cao đảm bảo tính dẻo cao cho màng mực trên vật liệu. Thường không nhiều lắm, tuy nhiên phần đông cứng này không đủ để tránh những hiệu ứng tác động từ bên ngoài. Nhất là trong trường hợp giấy di chuyển trong guồng xích vô tận và dính nhau khi rơi vào bàn đặt giấy.
3.1  Thiết bị phun bột
Những tờ được in di chuyển trong hệ thống ra giấy thì được phun bột để tránh những hiệu ứng các tờ in dính vào nhau hoặc mực lem vào tờ in sau. Những hạt bột rất mịn được phân bố trên tờ in bằng bơm khí nén đến các vòi phun đặt dọc theo khổ in. Lớp bột này ngăn không cho lớp mực vừa mới in xong còn ướt dính vào mặt trái của tờ in trước. Trong các máy in có lật mặt, bột được phun ở cả hai mặt của tờ in. Lớp bột không màu (màu trắng) có tác dụng như một đệm không khí vẫn đảm bảo quá trình oxy hoá xảy ra khi giấy đã xếp thành chồng. Các hạt này nằm trên bề mặt tờ in như một lớp đệm không khí tách riêng biệt giữa các tờ in. Kích thước của các hạt này rất đa dạng khoảng từ 15-75 µm (nguyên liệu: là các chất vô cơ không màu hoặc gốc thực vật).
·   Độ thô của bề mặt vật liệu, không được thô hơn kích thước hạt.
·   Lớp mực càng dày thì cần cung cấp nhiều bột hơn.
Sử dụng bột sai  những quy tắc trên có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng in, trong những tình huống cụ thể cần lưu ý đến độ bóng của mực.
Phân loại loại bột có gốc vô cơ hoặc thực vật:
·   Đá vôi (gốc vô cơ) tạo ra các hạt có kích thước khác nhau phù hợp với giấy in bìa cứng Carton)
·   Tinh bột (thực vật) được nghiền ra từ hạt ngô. Tạo ra các hạt mịn có kích thước như nhau, chỉ thích hợp cho quá trình xử lý giấy có định lượng từ 100g/m2 trở lên, những loại bột thực vật này không cứng như đá vôi. Do đó sự mài mòn của nó đối với mực là không đáng kể.
Bản in cũng vậy, giảm được tác động của sự mài mòn với các loại bột mềm (có gốc thực vật). Đối với in nhiều màu, bột đá vôi (gốc vô cơ) lắng lại tạo thành một lớp phủ trên bề mặt cao su hình thành mảng bụi giống như giấy nhám mài mòn bản in, làm giảm đáng kể độ bền của bản in.
3.2  Phủ Silicone
Trong các máy in cuộn thương mại, phủ một lớp màng mỏng dầu Silicone nhũ tương trong nước, mục đích ngăn không cho sản phẩm bắt bẩn trong khi gấp. Tuy nhiên sau khi in, lớp mực nằm dưới lớp silicone chưa khô hoàn toàn thậm chí cả vài ngày sau nó vẫn còn có thể bị bẩn khi mà lớp silicone bị chà xát và tróc ra khỏi lớp mực.
3.3  Đo độ khô của mực

Khi các tờ in mới được in hoàn tất đòi hỏi phải đủ sức chống lại các ma sát hay trầy xước và khi còn ở trên chồng giấy chúng không được dính lại với nhau. Sự cân bằng giữa mực, tính thấm hút của vật liệu và sự khô của mực cần được kiểm tra và thử nghiệm trước khi bắt đầu sản xuất.
Hệ thống thử đặc biệt có phương pháp thích hợp để xác định sự phối hợp khô giữa mực và vật liệu. Hệ thống thiết bị in kiểm tra có hai đơn vị in, in thử trên vật liêu là giấy được đặt ở đơn vị in đầu tiên. Đơn vị in thứ hai được thiết kế để vùng in của tờ mới in tiếp xúc với mặt giấy chưa in. Trong quá trình này mực trên tờ mới in chưa khô, nó sẽ bị lột và hiện ra (dính vào) tờ giấy chưa in. Lập lại cách làm này vài lần. (hình 5)
Đo mật độ quang học của lớp mực trên tờ thử nghiệm này sau mỗi lần in. Quá trình khô được xem như hoàn toàn khi mật độ quang học của mực có xu hướng tiến về zero. Khi đó không còn mực truyền từ tờ in sang tờ in thử nữa trong vùng in của đơn vị in thứ hai.
Đo độ khô: Đây là phương pháp được áp dụng rộng rãi để thử khả năng khô của mực in. Tuy vậy, nó không dễ để xác định độ khô của mực trong thực tế, nhất là trong máy in Offset vì giá trị của phép đo chỉ là giá trị trung bình. Phương pháp thử này được thực hiện trong phòng thí nghiệm, vì thế nó nhằm mục đích chính là dự báo khả năng khô của mực về lâu dài.
Phương pháp thử đã được phát triển để đo độ khô trong khi in dành cho máy in Offset cuộn, tuy vậy nó chưa được thừa nhận trong thực tế sản xuất. Cách thử này chỉ có thể ghi nhận khả năng khô trong ngắn hạn. Nguyên lý đó về cơ bản vẫn dùng các mẫu thử cố định để  đo lượng mực in truyền lên vật liệu.
 
Hình 7 : Hệ thống kiểm tra độ khô của mực.
a.  Cấu trúc chung của hệ thống
b. Đơn vị in thử với băng giấy đối chứng
Thử nghiệm ổn định trong máy in Offset cuộn là dùng một lô đệm (làm nền, đứng yên), một tấm bản trong suốt đặt đối diện với và tì vào băng giấy. Các mảng màu nhỏ in tông nguyên trên băng giấy, ví dụ như bên mép của hình ảnh. Nếu lớp màng mực không đủ khô mỗi một mảng nhỏ in tông nguyên đó để lộ ra một vết dơ mờ ở đuôi (theo hướng di chuyển cuộn) – tức là phần tử in có thể bị hư hại- Hiệu ứng này được dò ra bởi đầu đọc quang điện tử.
Đầu đọc quang điện tử  (electro-optical scanning) ghi nhận độ mờ đục trên tấm bản trong suốt đó tại điểm tiếp xúc giữa bản và băng giấy. Nếu lớp mực in chống lại được sức căng, bề mặt của giấy sạch tức là nền giấy còn trắng ở vùng đo, nó không làm mất ánh sáng giữa hai dấu kiểm tra. Ánh sáng phản xạ lại đầu Scan 100%. Nếu lớp mực in không chống lại được sức căng, mực in sẽ truyền lên tấm bản trong suốt tại vùng tiếp xúc, như vậy nó làm mờ đục tấm bản này và đo nguồn sáng phản xạ sẽ xác định là mực chưa khô. Nhiệt độ của hệ thống sấy được điều chỉnh tương ứng với tín hiệu đo được.
 Cách đo trên vẫn chưa là sự lựa chọn đầy đủ cho việc đo và kiểm soát độ khô của mực một cách trực tiếp, hầu hết cách kiểm tra độ khô được thực hiện rất cẩn thận bằng mắt và bằng tay của người vận hành máy. Sự phát triển của các kỹ thuật đo độ khô đang được quan tâm và thực hiện ở tương lai. Nó phải đáp ứng được các điều kiện tốt nhất và hài hòa nhất cho những vật liệu và các kỹ thuật phức tạp.
Lên phía trên
Kỹ thuật khuôn bế
Câu hỏi:

Có các loại khuôn bế hộp ?

Trả lời:

KHUÔN BẾ HỘP CÁC LOẠI

Khuôn bế hộp dùng để cắt và tạo nếp gấp trên các loại giấy Duplex, CosC,...

Khuôn dùng để dập các loại hộp thuốc tây, thuốc lá, mỹ phẩm,...

Khuôn bế hộp được cấu thành bởi những đường dao cắt bên ngoài và đường dao cấn tạo nếp gấp. Tùy theo độ dày của giấy, sử dụng dao (độ cao x độ dày) và sử dụng độ dày ván cho phù hợp.

Ví dụ: khuôn carton giấy sóng 5 lớp sóng B có độ dày 6mm thì sử dụng dao cắt cao 23.8mm dày 0.71mm hoặc 1.05mm (tùy thuộc vào độ cứng của giấy). Còn dao cấn cao 22.3mm hoặc là 22mm dày 0.71mm hoặc 1.05mm (tùy thuộc vào độ gấp của giấy) và ván dày 18mm, 16mm hoặc 14mm.

Khuôn bế hộp được sử dụng rộng rãi trong ngành bao bì giấy.

Lên phía trên
KHUÔN BẾ THÙNG CARTON
Câu hỏi:

KHUÔN BẾ THÙNG CARTON ?

Trả lời:

KHUÔN BẾ THÙNG CARTON

Khuôn bế thùng carton dùng để cắt và tạo nếp gấp trên các loại giấy tấm như Carton 2, 3, 5, 7...  lớp, chạy trên các loại sóng A, B, E, F để tạo nên các loại hộp và thùng giấy.

Khuôn bế hộp được cấu thành bởi những đường dao cắt bên ngoài và đường dao cấn tạo nếp gấp. Tùy theo độ dày của giấy, sử dụng dao (độ cao x độ dày) và sử dụng độ dày ván cho phù hợp.

Ví dụ: khuôn carton giấy sóng 5 lớp sóng B có độ dày 6mm thì sử dụng dao cắt cao 23.8mm dày 0.71mm hoặc 1.05mm (tùy thuộc vào độ cứng của giấy). Còn dao cấn cao 22.3mm hoặc là 22mm dày 0.71mm hoặc 1.05mm (tùy thuộc vào độ gấp của giấy) và ván dày 18mm, 16mm hoặc 14mm.

Khuôn bế hộp được sử dụng rộng rãi trong ngành bao bì giấy.

Lên phía trên
Khuôn bế là gì ?
Câu hỏi:

Khái niệm khuôn bế ?

Trả lời:
HUÔN BẾ LÀ GÌ?

Khuôn bế là một loại khuôn dùng để sản xuất ra thành phẩm cho ngành bao bì giấy gồm, tem nhãn decal, túi giấy, thiệp cưới và tất cả các loại bao bì giấy.

Khuôn bế được làm kết hợp với một loại ván dày 18mm và lưỡi dao cắt + lưỡi dao cấn tạo ra những đường gấp nếp.

  • QUI TRÌNH VÀ KỸ THUẬT LÀM KHUÔN BẾ THỦ CÔNG:
    • Dụng cụ đồ nghề gồm có:

- Máy cưa lộng.
- Máy uốn dao bế và kèm theo bộ vam nhiều hình dạng khác nhau để sử dụng tạo những góc bo hoặc góc nhọn góc vuông tuỳ theo từng chi tiết trên sản phẩm.
- Các vật dụng khác như kềm nhọn, dũa dẹp nhỏ, mô tơ mài, khoan tay, kéo cắt thép chuyên nghiệp, compac, bộ thước mỹ thuật, thước tròn, ovan, thước cây 1m, 30cm, 50cm, băng keo 2 mặt dày 5cm, lưỡi cưa thì nên dùng lưỡi cưa số 17 vì dùng loại này khi cưa ván để lồng lưỡi dao và nó vừa đúng với độ dày của lưỡi dao bế, ván ép dày 18mm chọn loại ván phải phẳng hoặc ván MDF loại được làm từ bột giấy.
Vậy là chúng ta đã chuẩn bị cho mình một số dụng cụ thiết bị để tiến hành tạo ra được khuôn.

    • Cách làm khuôn bế:

- Trước hết bạn phải tập cưa những đường thẳng, và tiết tục dùng compac vẽ những đường tròn dùng khoan tay khoan lỗ để lồng lưỡi cưa vào và cưa cho rất chuẩn.
- Tập uốn dao bế: bạn vẽ hình tròn và dùng máy uốn dao uốn theo hình tròn đó làm đi làm lại nhiều lần cho điều tay, và tiếp tục đến hình ovan hoặc là hình trái tim...
- Tập vẽ: nếu vẽ bằng tay thì bạn phải dùng compac tạo ra một góc vuông tuyệt đối chính xác bạn nên lấy một cái mẫu bao thơ kích thước 12 x 22 và làm theo nó, nếu bạn có máy vi tính thì nó hỗ trợ cho bạn rất nhiều trong công đoạn này thường thì những phần mềm hỗ trợ công việc này, chúng ta có thể dùng Autocad để vẽ.

 

Lên phía trên
Giới thiệu máy in Flexo
Câu hỏi:

Tôi muốn biết về các loại máy in flexo ?

Trả lời:
MÁY IN DỌC FLEXO BÁN TỰ ĐỘNG:
- Máy in dọc kèm cắt biên, cán lằn.
- Số màu tùy chọn.
    
 MÁY IN NGANG FLEXO TỰ ĐỘNG VÀ BÁN TỰ ĐỘNG:
 
Máy in ngang Flexo bán tự động.
Máy in ngang Flexo bán tự động kèm bộ xẻ rãnh, cắt góc, cán lằn. Số màu tùy chọn
 
Máy in ngang Flexo tự động 3 màu.
Tốc độ nhanh hơn, độ chính xác cao. Đưa giấy tự động bằng lưỡi gạt, kèm bộ xẻ rãnh, cắt góc, cán lằn. Số màu tùy chọn.
 
Máy in ngang Flexo tự động 4 màu.
Tốc độ nhanh, độ chính xác cao. Đưa giấy tự động bằng hút chân không, kèm bộ bế tròn và xẻ rãnh, cắt góc, cán lằn.

Xem thêm các loại máy in flexo chính hãng giá tốt nhất tại đây http://danbuon.com/news/MAY-IN-FLEXO/

Tư vấn lựa chọn máy phù hợp Ms Loan - 0976 249 627
 


 

Vui lòng chỉ mua sản phẩm khi bạn cảm thấy hài lòng 100%
Chương trình bắt đầu từ 01/07/2015 đến hết sản phẩm mẫu